Chống "giặc nội xâm" - những hồi trống lệnh kiên quyết và chính xác!

          Chống tham nhũng, tiêu cực trong khu vực kinh tế Nhà nước, nhất là trong cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước là lĩnh vực rất “nóng” nhưng hết sức phức tạp, khó khăn. Với tinh thần “không có giới hạn, không có vùng cấm”, thời gian qua, nhiều vụ việc sai phạm đã và đang được đưa ra ánh sáng, được cán bộ, đảng viên và nhân dân cả nước đồng tình, ủng hộ. Thế nhưng, vẫn có những kẻ cố tình xuyên tạc, kích động sai sự thật, hòng làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước trong cuộc chiến chống "giặc nội xâm".

Cuộc chiến kiên quyết, nhất quán, liên tục
Một số kẻ rất xảo trá khi một mặt thường rêu rao, chỉ trích Đảng, Nhà nước ta yếu kém trong quản lý doanh nghiệp Nhà nước nhưng ngay sau khi hàng loạt vụ việc tham nhũng, tiêu cực liên quan đến doanh nghiệp Nhà nước bị phanh phui thì họ lại lắt léo phê phán Đảng, Nhà nước và bênh vực cho những đối tượng liên quan.
Trong vụ việc Trịnh Xuân Thanh, ngay sau khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng quyết liệt chỉ đạo xử lý nghiêm thì đã xuất hiện những kẻ “lưu manh” chính trị tung ra “hỏa mù” rằng: Hoàn toàn không có tham nhũng, chỉ là làm ăn lỗ vốn, đã có thanh tra kết luận không có dấu hiệu của tư lợi cá nhân. Từ đó, họ rêu rao: Đảng can thiệp quá sâu, cố “thổi phồng”, “đã chỉ đạo thì kiểu gì cũng có tội”. Tương tự, sau khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ đạo làm rõ các bài báo liên quan đến Thứ trưởng Bộ Công Thương Hồ Thị Kim Thoa, đã xuất hiện ngay những luận điệu như: “Mớm bóng cho dư luận bức xúc”, “sở hữu cổ phần như thế không có gì sai”, “Đảng đã ra tay thì kẻ không có tội cũng thành có tội”. Từ đó họ cho rằng, Đảng đã “lấn sân” chính quyền trong chống tham nhũng.
Trong một lần tiếp xúc cử tri, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã yêu cầu người dân khi nghe thông tin về vụ việc Trịnh Xuân Thanh cần để ý. Đây mới là kỷ luật về Đảng, về công tác cán bộ, chứ chưa nói đến hình sự, kinh tế, nói đến việc 3.200 tỷ đồng. Những việc đó cần phải qua nhiều khâu điều tra, xử lý. Cùng với xử lý kỷ luật Đảng thì Nhà nước, chính quyền phải có xử lý. Qua ý kiến của Tổng Bí thư, cho thấy, Đảng ta lãnh đạo chặt chẽ nhiệm vụ chống tham nhũng nhưng không bao biện, không làm thay Nhà nước.
Năm 2012, với 94,98% số đại biểu tán thành, Quốc hội đã thông qua Luật Phòng chống tham nhũng (sửa đổi) với nội dung mới nổi bật là thay thế mô hình Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng do Thủ tướng đứng đầu bằng việc lập Ban chỉ đạo Trung ương thuộc Bộ Chính trị do Tổng Bí thư làm Trưởng ban.
Ngày 1-2-2013, Bộ Chính trị ban hành Quyết định số 162-QĐ/TW thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng. Sau 4 năm ra đời, Ban chỉ đạo hoạt động ngày càng hiệu quả. Chỉ riêng năm 2016, Ban chỉ đạo đã thành lập 7 Đoàn công tác kiểm tra, giám sát việc thanh tra các vụ việc, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, dư luận quan tâm tại 14 tỉnh. Qua kiểm tra, giám sát, đã kiến nghị 42 vấn đề về cơ chế, chính sách, pháp luật; kiến nghị đôn đốc, theo dõi, chỉ đạo xử lý 87 vụ việc, vụ án. Qua kiểm tra, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đưa ra 11 nhóm kiến nghị; yêu cầu chỉ đạo kiểm điểm làm rõ trách nhiệm và xử lý đối với 29 cơ quan, đơn vị liên quan. Nhiều vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp được xử lý đúng tiến độ, nghiêm minh như các vụ án: Phạm Công Danh, Hà Văn Thắm, Lê Dũng, Phạm Ngọc Ngoạn, Huỳnh Thị Huyền Như…
Bốn năm qua, trong tổng số 40 vụ án và 7 vụ việc Ban chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo đã kết luận điều tra, đề nghị truy tố 26 vụ/330 bị can; đã truy tố xét xử sơ thẩm 21 vụ/247 bị cáo, xét xử phúc thẩm 14 vụ/137 bị cáo, với mức án nghiêm khắc (7 bị cáo với 8 mức án tử hình, 14 bị cáo với 15 mức án tù chung thân, 6 bị cáo có mức án tù 30 năm, 203 bị cáo có mức án tù từ 15 tháng đến dưới 30 năm)…Việc điều tra, truy tố, xét xử rất nghiêm khắc đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh, răn đe, phòng ngừa tham nhũng, được nhân dân đồng tình ủng hộ.
Những con số trên cho thấy, Đảng ta đã lãnh đạo, chỉ đạo phòng, chống tham nhũng rất nghiêm minh, toàn diện, không phải “chỉ có vụ Trịnh Xuân Thanh”, “chỉ làm vài vụ để tuyên truyền”...
"Đánh trống" phải chắc chắn, chính xác
Một số thành phần cơ hội chính trị cho rằng, trong lĩnh vực doanh nghiệp Nhà nước vì bị vướng bởi lợi ích nhóm nên Đảng ta chỉ “đánh trống phát một” mà không dám “đánh trống trận”, "đánh chuột còn sợ vỡ bình quý"...
Nhà báo Nhị Lê, Phó tổng biên tập Tạp chí Cộng sản là người từng có dịp báo cáo với Tổng Bí thư vấn đề nhân dân quan tâm vì sao không “đánh trống liên hồi”. Ông cho biết: "Mặc dù Tổng Bí thư là người hết sức cẩn trọng, nhưng ở những thời khắc quyết định có tính bước ngoặt thì ông luôn tỏ rõ là người hết sức bản lĩnh, mưu lược và đầy quyết đoán. Trước khi quyết định một việc gì ông cân nhắc hết sức kỹ lưỡng, nâng lên đặt xuống, xem xét kỹ mọi khía cạnh. Và khi đã quyết rồi thì ông không bao giờ chùn bước. Riêng với vụ việc Trịnh Xuân Thanh và cựu Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng, “khi Tổng Bí thư đã chỉ đạo thì vụ việc là hết sức nghiêm trọng và kết quả sẽ sớm được làm rõ. Những người có liên quan, dù đó là ai, giữ chức vụ gì, nếu có sai phạm thì chắc chắn sẽ bị nghiêm trị”.
Trong cuộc tiếp xúc với cử tri Hà Nội ngày 6-8-2016 vừa qua, có cử tri đặt câu hỏi: “Tổng Bí thư đã đánh trống rồi, tại sao không đánh liên hồi, mà lại đánh nhát một”. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã trả lời: “Đánh” là phải thận trọng, “đánh” đâu chắc đó!
Câu trả lời trên đã thể hiện rõ quan điểm và bản lĩnh của Đảng ta trong cuộc chiến cam go, phức tạp này. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng căn dặn: Chống tham nhũng “phải có chuẩn bị, kế hoạch, tổ chức, ắt phải có lãnh đạo và trung kiên”. Lòng dân thì mong muốn là vậy, nhưng người cầm dùi trống phải hết sức thận trọng. Tùy thuộc vào vụ việc cụ thể, hoàn cảnh cụ thể mà đánh trống tiếng một hay liên tục. Chống tham nhũng, tiêu cực cần phải thận trọng, đúng người đúng tội. Muốn đánh trống rồi không bỏ dùi thì công tác chuẩn bị phải hết sức kỹ càng, làm đến nơi đến chốn, không được “mang thúng úp voi”. Cũng chính tại buổi tiếp xúc cử tri Hà Nội hôm 6-8-2016, Tổng Bí thư có nói rằng, trong vụ việc Trịnh Xuân Thanh cho thấy còn rất nhiều vấn đề hệ trọng, các cơ quan chức năng đang điều tra, chưa thể công bố ra hết được.
Thực tiễn điều tra, xác minh các vụ việc thời gian qua đã cho thấy những ý kiến Tổng Bí thư nêu ra là hoàn toàn xác đáng. Thực tiễn cũng đã là lời chứng minh đanh thép cho những luận điệu tiêu cực cho rằng, vụ Trịnh Xuân Thanh  là “có bé xé ra to”, “làm trầm trọng hóa vấn đề”. Liên quan vụ án Trịnh Xuân Thanh, ngày 15-2-2017 vừa qua, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã quyết định khởi tố 5 bị can, tạm giam 4 người và cấm đi khỏi nơi cư trú một người. Những cán bộ trên đều liên quan đến các sai phạm khiến cho hàng nghìn tỷ đồng tiền dự án của Nhà nước bị mang trả nợ và kinh doanh bất động sản dẫn đến mất toàn bộ vốn chủ sở hữu và nợ nần chồng chất.
Từ chỉ đạo của Đảng, các cơ quan pháp luật vào cuộc thời gian qua cho thấy, vụ việc Trịnh Xuân Thanh ẩn chứa hàng loạt sai phạm nghiêm trọng khác, liên quan đến nhiều người, nhiều đường dây và như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói “cũng chỉ là một ví dụ”. Chống tham nhũng muốn thành công, sau hồi trống lệnh của Tổng Bí thư, còn cần phải có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, đúng như Bác Hồ từng căn dặn phải dựa vào dân. Người nói: “Làm cho quần chúng khinh ghét tệ tham ô, lãng phí, quan liêu; biến hàng trăm, hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của quần chúng thành những ngọn đèn pha soi sáng khắp mọi nơi, không để cho tệ tham ô, lãng phí, quan liêu còn chỗ ẩn nấp”.
Không có “đánh chuột sợ vỡ bình”
Một số người cố tình xuyên tạc phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng rằng, “đánh chuột sợ vỡ bình quý” vì vướng lợi ích nhóm. Trên thực tế, có thể dễ dàng tìm lại những bài nói, bài viết, không hề có một chữ nào thể hiện quan điểm bao che, hay e dè một vấn đề gì. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn kiên định lập trường “không có vùng cấm trong việc chống tham nhũng”, “nói đi đôi với làm”. Thời gian qua, nhiều đối tượng, nhiều vụ việc đều bị xử lý nghiêm minh, bất kể cán bộ vi phạm là ai. Tuy nhiên, là người lãnh đạo luôn đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thận trọng chỉ ra rằng: Đấu tranh chống tham nhũng phải gắn với giữ ổn định chính trị có nghĩa là đấu tranh kiên quyết nhưng phải hết sức khôn khéo, tỉnh táo, không để kẻ xấu lợi dụng làm mất ổn định; không được lợi dụng chống tham nhũng để chống phá Đảng. Những chỉ đạo đó là hoàn toàn đúng đắn.
Ngay trong lĩnh vực cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, một lĩnh vực mà thường bị các thế lực xấu cho rằng, Đảng ta “không muốn chống tham nhũng” vì vướng nhiều “đặc quyền đặc lợi” thì thời gian qua, lãnh đạo Đảng, Nhà nước đều chỉ đạo quyết liệt phải đẩy mạnh cổ phần hóa và siết chặt xử lý các lỗ hổng.
Chỉ đạo làm rõ thông tin liên quan đến Thứ trưởng Bộ Công Thương Hồ Thị Kim Thoa vừa qua, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: Yêu cầu Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo các cơ quan chức năng nghiên cứu, rà soát các quy định của pháp luật có liên quan để sớm sửa đổi hoặc kiến nghị việc sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện các quy định, khắc phục những hạn chế trong công tác quản lý; lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành phòng, chống thất thoát tài sản của Nhà nước, ngăn ngừa tiêu cực, tham nhũng, lợi ích nhóm trong quá trình thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
Gần đây, Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI) đã có văn bản gửi Thủ tướng Chính phủ đề xuất, có thể tăng thu cho ngân sách Nhà nước hơn 15  tỷ USD từ tiến trình bán cổ phần tại các doanh nghiệp Nhà nước, nguyên nhân chưa làm được là do nhiều doanh nghiệp Nhà nước tuy đã được cổ phần hóa mà không chịu niêm yết và thoái vốn. Trong văn bản, ông Nguyễn Hoàng Hải, Phó chủ tịch VAFI đã chỉ đích danh 2  trường hợp  doanh nghiệp Sabeco và Habeco (Bộ Công Thương) tìm mọi cách trốn tránh niêm yết trong 9 năm. Chỉ đến khi có sự chỉ đạo trực tiếp từ Thủ tướng Chính phủ thì Sabeco và Habeco mới chịu làm thủ tục niêm yết. VAFI cũng cho rằng, có tình trạng ngăn cản việc niêm yết từ lãnh đạo bộ chủ quản mà cụ thể là nguyên Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng và Thứ trưởng Hồ Thị Kim Thoa là những người đã cản trở hai doanh nghiệp trên niêm yết với nhiều lý do. Một trong những lý do đó là việc bổ nhiệm người thân không có năng lực vào các vị trí chủ chốt tại doanh nghiệp.
Ý kiến của VAFI nêu trên thêm một dẫn chứng cho thấy chúng ta rất quyết liệt đổi mới, không níu kéo lợi ích trong cổ phần hóa. Sau 26 năm kể từ khi thí điểm cổ phần hóa (1991), Đảng, Nhà nước ta đã kiên quyết thực hiện chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước. Số lượng doanh nghiệp nhà nước giảm mạnh, từ 12.000 doanh nghiệp năm 1993 đến nay cả nước chỉ còn 718 doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước và đến năm 2020 sẽ chỉ còn 190 doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước.
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã nhiều lần khẳng định quyết liệt cổ phần hóa, những lĩnh vực trong và ngoài nước làm tốt hơn thì để cho doanh nghiệp tư nhân làm. Nhà nước dành tiền đầu tư những dự án then chốt, có tác động tốt hơn cho tăng trưởng kinh tế của đất nước. Tại một hội nghị cuối năm 2016, thủ tướng cũng đã thẳng thắn nhìn nhận, lợi ích cục bộ chính là rào cản lớn đối với tiến trình cổ phần hóa và khẳng định, cổ phần hóa và tái cơ cấu sẽ góp phần phòng, chống tham nhũng vì có nhiều cổ đông cùng giám sát vốn.
Những “hồi trống lệnh” chống tham nhũng mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gióng lên đã đáp ứng được mong mỏi của đảng viên và nhân dân cả nước. Những hồi trống kiên quyết, chắc chắn ấy sẽ tạo ra những chuyển động đột phá, giúp cho cuộc chiến chống “giặc nội xâm” của Đảng, Nhà nước ta ngày càng thành công hơn nữa.

Việt Tân từ đâu ra?

    Sau Đại thắng Mùa xuân 1975, một số đối tượng ngụy quân, nguỵ quyền lưu vong từng có nhiều nợ máu với nhân dân, vẫn cay cú, hận thù cách mạng Việt Nam. Được sự hà hơi, tiếp sức của các cơ quan đặc biệt nước ngoài và bọn phản động quốc tế, chúng đã tiến hành nhiều âm mưu và hoạt động thâm độc, hòng xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, lật đổ chính quyền cách mạng..."Việt tân" là một trong những tổ chức như thế. 

Ngăn chặn 'tự diễn biến', 'tự chuyển hóa' từ giới trẻ

Khi đề cập tới vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đã khẳng định: Việc thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 trong đoàn viên, thanh niên, giới trẻ có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”. Khi đề cập tới vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đã khẳng định: Việc thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 trong đoàn viên, thanh niên, giới trẻ có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Bởi chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thì phải chống ngay từ đầu, tức là khi mới có dấu hiệu của mầm bệnh thì chúng ta phải “bốc thuốc” chữa trị dứt điểm ngay, chứ để “bệnh nặng” rồi thì chữa trị sẽ vô cùng vất vả, phức tạp, tốn kém. Trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, lần đầu tiên Đảng chỉ rõ 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Cũng phải nhìn thẳng sự thật mà nói, là có không ít thanh niên ngày nay có biểu hiện phai nhạt chủ nghĩa cách mạng, chạy theo lợi ích vật chất, cá nhân. Xu hướng hưởng thụ cũng xuất hiện ở một bộ phận giới trẻ”. Trước những tác động của mặt trái kinh tế thị trường, xu hướng toàn cầu hóa, nhiều thanh niên đã có những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Phai nhạt lý tưởng cách mạng, dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị, lười học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đáng chú ý, các thế lực thù địch, phản động hiện đang không ngừng ráo riết triệt để lợi dụng các phương tiện công nghệ thông tin, truyền thông, đặc biệt là Internet, các trang mạng xã hội để xâm nhập, móc nối, tác động với mục đích làm “chuyển hóa” nội bộ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong suy nghĩ và tư tưởng của thanh niên.
Thời gian gần đây, đã có nhiều vụ việc vi phạm pháp luật đáng tiếc của giới trẻ trong sử dụng mạng xã hội. Cuối tháng 8-2016, 2 thanh niên ở TP Cam Ranh (Khánh Hòa) là Nguyễn Hữu Thiên An (21 tuổi) và Nguyễn Hữu Quốc Duy (31 tuổi) là anh em con chú bác ruột đã bị TAND tỉnh Khánh Hòa xử sơ thẩm, tuyên phạt tổng cộng 5 năm tù về tội tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Từ đầu năm 2009 đến cuối năm 2015, Duy vào mạng xã hội Facebook để trực tiếp soạn thảo, chia sẻ hàng chục bài viết với quan điểm sai lệch, xuyên tạc đường lối, chính sách, chủ trương của Đảng, Nhà nước; kêu gọi các phần tử cùng đấu tranh, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý của Nhà nước.
Nguyễn Hữu Thiên An lại dùng sơn vẽ khẩu hiệu phản động theo lời kêu gọi của tổ chức phản động Việt Tân trên tường trụ sở Công an phường Vĩnh Phước, TP Nha Trang (Khánh Hòa) vào tối 17-4-2015.
Sau đó, An tiếp tục dùng điện thoại chụp ảnh và đăng trên trang Facebook của tổ chức Việt Tân. Mới đây, cuối tháng 12-2016, một vụ việc khác thu hút sự quan tâm của đông đảo dư luận xã hội là sự việc đối tượng Nguyễn Danh Dũng (29 tuổi), trú tại phường Tào Xuyên, TP Thanh Hóa đăng hơn 700 video clip có tiêu đề xuyên tạc, bôi nhọ, hạ uy tín các lãnh đạo Đảng, Nhà nước và phát tán trên mạng Internet.
Tại thời điểm cơ quan chức năng Bộ Công an và Công an tỉnh Thanh Hóa ập vào bắt quả tang, ngày 14-12, Nguyễn Danh Dũng đang đăng tải các video có nội dung phản động.
Thủ đoạn hoạt động của đối tượng là biên tập các video clip với lời bình là bài viết được Dũng thu thập từ trang mạng phản động hoặc sử dụng các video clip được thu thập từ các trang mạng xã hội; sau đó, biên tập lại nội dung bằng cách chèn logo ThienAn TV, thêm hình ảnh đại diện, điều chỉnh lại giọng điệu, thay đổi các tiêu đề có nội dung xuyên tạc, bịa đặt, bôi nhọ, hạ uy tín các lãnh đạo Đảng, Nhà nước để gây sự chú ý, thu hút lượt người xem.
Để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong mỗi đoàn viên, thanh niên, giới trẻ; ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng trên cần phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, với tinh thần quyết liệt, kịp thời.
Trước hết, mỗi thanh niên, đoàn viên cần không ngừng học hỏi, tu dưỡng, rèn luyện, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối tin tưởng vào đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Sống có mục tiêu, lý tưởng, có ước mơ, hoài bão cao đẹp, trung thực.
Có tinh thần cảnh giác, tuân thủ nghiêm pháp luật đồng thời cần nắm bắt, tự trang bị cho mình những kiến thức, hiểu rõ được những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động, chống phá Đảng và Nhà nước ta; không để những đối tượng xấu lợi dụng, lôi kéo dẫn tới sa ngã.
Các ban, ngành chức năng và Đoàn Thanh niên cần phối hợp chặt chẽ tăng cường giáo dục, phổ biến cho thế hệ trẻ hiểu biết đầy đủ, đúng đắn về cách thức, hoạt động và nội dung chống phá của các thế lực thù địch, nhất là trên mạng Internet, các mạng xã hội.
Định hướng dư luận đúng đắn cho thế hệ trẻ, giúp thế hệ trẻ có nhận thức sâu sắc về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch về chiến lược “Diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Bên cạnh đó, cần tăng cường việc quản lý Internet, các trang mạng xã hội để hạn chế thấp nhất những tác động xấu đến thế hệ trẻ. Tạo mọi điều kiện thuận lợi, giúp đỡ, hướng nghiệp cho tuổi trẻ để mỗi đoàn viên thanh niên được cống hiến, phát huy sức trẻ; năng động, sáng tạo vững vàng trong cuộc sống, đáp ứng đòi hỏi của đất nước và thời đại mới...

Cái mới trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng

        Ban Chấp hành Trung ương Đảng vừa ban hành Nghị quyết “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”.
        Dư luận chung trong Đảng và trong nhân dân vui mừng đón nhận, mong muốn tìm thấy trong nghị quyết mới này nhiều cái mới, cả lời giải thuyết phục cho những điều bức xúc hiện nay.
        Để tránh sự trùng lặp, nghị quyết chồng lên nghị quyết, Trung ương từng có chủ trương: Không ra nghị quyết mới khi không có vấn đề mới, nội dung mới, tư tưởng chỉ đạo mới và biện pháp mới.
        Nghị quyết Trung ương 4 lần này là nghị quyết chuyên đề về xây dựng Đảng đầu tiên mà Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII ban hành.
        Vậy cái mới của Nghị quyết này là gì? Xin thử bàn.

        CÁI MỚI TRƯỚC HẾT ĐƯỢC THỂ HIỆN Ở CHỦ ĐỀ CỦA NGHỊ QUYẾT

        Đại hội XII của Đảng quyết định: “Trong những năm tới, yêu cầu, nhiệm vụ nặng nề của thời kỳ phát triển mới đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng, trọng tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI”.(1)
        Đại hội XII cũng quyết định: Trong sáu nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc đổi mới và phát triển đất nước trong nhiệm kỳ Đại hội XII (2016 - 2020), nhiệm vụ trọng tâm số 1 là: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”.(2)
        Với chủ đề (hay tiêu đề) nêu trên, Nghị quyết Trung ương 4 lần này không những thể hiện một cách nghiêm túc mà còn rất sáng tạo, có tính cập nhật cao đối với hai trọng tâm mà Đại hội XII đã chỉ ra.

        CÁI MỚI TIẾP THEO THỂ HIỆN MỘT CÁCH TẬP TRUNG TRONG NHỮNG NỘI DUNG CỐT LÕI CỦA NGHỊ QUYẾT
        Phát biểu ý kiến bế mạc Hội nghị Trung ương 4, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói: Cái mới của lần này là Trung ương đã thẳng thắn chỉ ra một cách có hệ thống những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.(3)
        Đúng là như vậy. Nghị quyết Trung ương đã nêu lên 9 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, 9 biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống và 9 biểu hiện về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
        Và chỉ rõ rằng: Trong các biểu hiện đó, nguy hiểm nhất là sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, mơ hồ, dao động, thiếu niềm tin, nói trái, làm trái quan điểm của Đảng; thậm chí sa sút ý chí chiến đấu, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, phụ họa theo những quan điểm sai trái, lệch lạc; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn bổn phận, chức trách được giao, không thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng.
        Sự suy thoái về đạo đức, lối sống còn thể hiện ở chỗ sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, tham nhũng, tham quyền lực, bè phái cục bộ, mất đoàn kết, tư duy nhiệm kỳ, lợi ích nhóm, quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn bức xúc của dân.
        Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Từ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc". (4)
        Nghị quyết Trung ương 4 đã đưa lại cho chúng ta một sự nhận diện khá đầy đủ, sắc nét về thực trạng suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng ta là: nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật. Nhận diện đúng là để qua đó mỗi cá nhân và tổ chức trong Đảng có thể tự soi mình. Có ai nghĩ rằng, lười học tập cũng là biểu hiện của sự suy thoái? Thế mà, trong 18 biểu hiện suy thoái được liệt kê, biểu hiện thứ ba ghi rõ: “Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”.
        Nhận diện đúng là để suy ngẫm và hành động. Không phải để bi quan hay nhụt chí, mà là để sẵn sàng cho một cuộc chiến đấu mới rất quyết liệt trong thời gian tới, vì sự trong sạch, vững mạnh của Đảng.

        CÁI MỚI CÒN ĐƯỢC THỂ HIỆN TRONG VIỆC XÁC ĐỊNH CÁC NHÓM NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP VỚI NHỮNG ĐIỂM NHẤN QUAN TRỌNG

        Bốn nhóm nhiệm vụ, giải pháp Nghị quyết Trung ương 4 nêu lên là: về công tác chính trị tư tưởng, tự phê bình và phê bình; về cơ chế, chính sách; về kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng; về phát huy vai trò của nhân dân và Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội.
        Mỗi nhóm nhiệm vụ giải pháp ấy đều có những điểm nhấn quan trọng. Đó là: Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; chú trọng nêu gương người tốt, việc tốt; ngăn ngừa, cảnh báo, phê phán những việc làm sai trái. Đấu tranh mạnh mẽ chống chủ nghĩa cá nhân, thói ích kỷ, vụ lợi, lợi ích nhóm. Là rà soát, hoàn thiện cơ chế kiểm soát việc thực thi quyền lực của người có chức, có quyền, bảo đảm quyền hạn đến đâu thì trách nhiệm đến đó. Xử lý nghiêm những hành vi vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật của Nhà nước; kiên quyết chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Là thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng; công tác cán bộ, công tác kiểm tra; công tác giáo dục, rèn luyện đảng viên. Là phát huy vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị- xã hội, của nhân dân, của báo chí, của công luận; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp; thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát”…
        Có những việc rất cấp bách, không thể trì hoãn mà đòi hỏi phải làm ngay. Thí dụ như: “Bộ Chính trị, Ban Bí thư và ban thường vụ cấp ủy các cấp chỉ đạo rà soát ngay (tác giả nhấn mạnh) đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc quyền và xử lý nghiêm những trường hợp suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, không bảo đảm về tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình bổ nhiệm, năng lực và hiệu quả công tác thấp, nhất là những trường hợp người nhà, người thân của cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp có nhiều dư luận”. Hoặc: “Kiên quyết sàng lọc, miễn nhiệm, thay thế cho từ chức đối với cán bộ làm việc kém hiệu quả, không hoàn thành nhiệm vụ, yếu về năng lực, kém về phẩm chất đạo đức, tín nhiệm thấp mà không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu. Trước mắt rà soát, kiểm tra, xử lý dứt điểm các vụ việc vi phạm trong thực thi quyền lực, gây bức xúc trong cán bộ, đảng viên và nhân dân”.
        Hệ thống các nhóm nhiệm vụ, giải pháp cho thấy quyết tâm cao của Trung ương, người vừa là tác giả của Nghị quyết, vừa là chủ thể thực hiện và lãnh đạo thực hiện nghị quyết.
        Ba cái mới nêu trên xin được hiểu là những cảm nhận cá nhân.
        Điều mong muốn của tất cả chúng ta, trong Đảng cũng như trong nhân dân là Nghị quyết Trung ương 4 sớm được đưa vào cuộc sống một cách toàn diện, đồng bộ, đương nhiên là có trọng tâm trọng điểm. Ai cũng biết: Một việc làm có ích, một đóng góp thiết thực có giá trị hơn nhiều so với những lời nói khoa trương. Một tấm gương sống hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền!
        “Muốn Nghị quyết này đi vào cuộc sống, tạo ra chuyển biến rõ rệt thì cả hệ thống chính trị phải vào cuộc. Từng tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ cấp cao, cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các cấp, các ngành phải nhận thức sâu sắc, đầy đủ trách nhiệm của mình trước nhân dân, trước Đảng để tự giác thực hiện. Ở đây, sự gương mẫu của Trung ương là cực kỳ quan trọng, có ý nghĩa quyết định. Từng đồng chí Ủy viên Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, từng đồng chí đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp phải tự giác, gương mẫu thực hiện nghị quyết, nói đi đôi với làm, chỉ đạo quyết liệt với quyết tâm rất cao, sự nỗ lực rất lớn”(5).
        Đó là lời Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, một lời chỉ dẫn sâu sắc, cũng là sự cam kết nghiêm trang của người đứng đầu Đảng ta.
Theo Nhân dân

Từ “Chính phủ phục vụ” trong tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh đến “Chính phủ kiến tạo” ở nước ta hiện nay

         Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta di sản vô giá về lĩnh vực chính trị, về nhà nước, tổ chức bộ máy nhà nước, phương thức quản lý xã hội, quản trị quốc gia phù hợp với đặc thù, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam trong thế kỷ XX. Trong đó, Người đặc biệt coi trọng đến vấn đề nguồn gốc, bản chất của quyền lực nhà nước, quyền lực chính trị; chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ; thái độ, trách nhiệm của người cán bộ cách mạng.

         Kế tục những di sản quý báu của Người, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã xây dựng và đạt được những thành tựu quan trọng trong lĩnh vực chính trị, đặc biệt là trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Bước sang thế kỷ XXI, chúng ta tiếp tục đẩy nhanh quá trình đổi mới toàn diện đất nước; tích cực, chủ động hội nhập khu vực và thế giới. Để tận dụng và khai thác được những thời cơ của quá trình toàn cầu hóa và hạn chế được những thách thức, tác động tiêu cực trong quá trình hội nhập, chúng ta chủ trương cải cách mạnh mẽ thể chế chính trị theo hướng xây dựng mô hình “Nhà nước pháp quyền”, “Chính phủ kiến tạo”… Tìm hiểu tư tưởng của Người về nguồn gốc, bản chất của quyền lực chính trị; phương thức tổ chức, vận hành của bộ máy nhà nước; đặc biệt là vị trí, vai trò của Chính phủ; chức trách, nhiệm vụ của người cán bộ cách mạng sẽ cho chúng ta “cái nhìn toàn diện hơn” về tiến trình cải cách thể chế nói chung, nhất là xây dựng mô hình “Chính phủ kiến tạo”, “Chính phủ liêm chính” trong kỷ nguyên toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.

         Tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về “Chính phủ phục vụ” 

         Tư tưởng về “Chính phủ phục vụ” đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện không chỉ trong các bài viết, bài phát biểu của Người về nguồn gốc, bản chất, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung, mà còn trong toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng vẻ vang của mình với tư cách là người sáng lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Người đứng đầu Chính phủ, trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật của nước Việt Nam mới, phấn đấu để Nhà nước ta thực sự trở thành Nhà nước xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ. 
Theo quan điểm của Người, sau khi lật đổ ách thống trị của thực dân, phong kiến tay sai, cần lập nên chính quyền của nhân dân. Vấn đề đặt ra là chính quyền đó được xây dựng như thế nào để thực sự là một chính quyền thuộc về nhân dân - quyền lực chính trị thuộc về nhân dân. Trải qua một quá trình nghiên cứu, tìm hiểu toàn diện, sâu sắc những kinh nghiệm về xây dựng nhà nước trên thế giới, Người đã chủ trương và tiến hành xây dựng Nhà nước dân chủ “kiểu mới”, thể hiện quan niệm hoàn chỉnh về nguyên tắc quản lý xã hội theo pháp luật trong một nhà nước dân chủ theo tinh thần pháp quyền. Nhà nước kiểu mới là nhà nước dân chủ, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước mà nhân dân lao động thực sự được làm chủ - nhân dân là chủ thể “duy nhất và cao nhất” của quyền lực nhà nước, quyền lực chính trị; Chính phủ là “công cụ phục vụ” nhân dân.
         Từ những năm 20 của thế kỷ trước, Người đã phê phán một cách quyết liệt bản chất của bộ máy nhà nước thực dân. Người vạch trần bản chất xấu xa của chế độ thực dân đế quốc bên trong cái vỏ hào nhoáng khai hóa văn minh trước công luận. Qua đó, Người chuẩn bị cho mình những cơ sở lý luận và thực tiễn để hình thành nên tư tưởng về một Nhà nước kiểu mới, thật sự dân chủ. Điều này thể hiện rõ trong tác phẩm Đường Cách mệnh. Người viết: "Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới hạnh phúc”(1). Quan điểm quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và phục vụ cho lợi ích của nhân dân là cốt lõi và xuyên suốt trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong tư tưởng của Người, tư tưởng về dân chủ - với ý nghĩa là bản chất của quyền lực nhà nước và phương thức tổ chức, triển khai quyền lực nhà nước là một “nét độc đáo”. Theo Người, dân chủ hiểu một cách chung nhất là quyền lực chính trị thuộc về nhân dân, chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ. 
         Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước “kiểu mới” phải là nhà nước lấy nhân dân làm động lực xây dựng tổ chức và phương thức hoạt động; đồng thời, coi nhân dân là mục đích “cao nhất” để phục vụ; trong đó vị trí, vai trò của Chính phủ là “phục vụ nhân dân”. Người khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân... Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(2). Điều 1 Hiến pháp 1946 do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng Ban Soạn thảo đã khẳng định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa, tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam. Không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Bộ máy nhà nước là do nhân dân lựa chọn, bầu ra và ủy quyền nhằm thực hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Vì vậy, khác với chế độ phong kiến, Vua là chủ, nay là chế độ dân chủ, nhà nước của dân thì dân là chủ, đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước không thể là các “ông quan cách mạng, mà là công bộc của nhân dân”. 
         Trong khi khẳng định vai trò chủ thể của nhân dân đối với quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn trăn trở một điều có ý nghĩa quyết định là: “Làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”(3). Người chỉ rõ, Chính phủ phải tìm cách hình thành các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người dân và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước phải hết lòng phục vụ nhân dân với tinh thần “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”. 
         Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, một Chính phủ phục vụ nhân dân không chỉ ở chỗ do nhân dân lập ra thông qua bầu cử dân chủ, “phải xin ý kiến” nhân dân những công việc hệ trọng, mà còn phải chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân. Người viết: “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ. Chính phủ là đày tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Chính phủ thì việc to, việc nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân. Vì vậy, nhân dân lại có nhiệm vụ giúp đỡ Chính phủ và làm đúng chính sách của Chính phủ, để Chính phủ làm tròn phận sự mà nhân dân đã giao phó cho”(4). 
         Vì vậy, Chính phủ phải biết tôn trọng, lắng nghe và học hỏi dân, gần dân, thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng, ý chí của dân, tìm cách khơi nguồn, bồi dưỡng và nâng cao sức dân. Mặt khác, Chính phủ được lập nên không phải là để làm thay nhân dân, mà là để phục vụ nhân dân, thực hiện vai trò “người cầm lái, người tổ chức” để nhân dân bằng trí tuệ và sức mạnh vốn có giải quyết các vấn đề của chính mình. Nói về mối quan hệ giữa Chính phủ và nhân dân, Người chỉ rõ: “dân như nước mình như cá”; phải “đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân... Chính phủ chỉ giúp kế hoạch, cổ động”. Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ thì nhân dân không ai dẫn đường. Vậy nên, Chính phủ với nhân dân phải đoàn kết thành một khối. Mối quan hệ giữa Chính phủ với nhân dân được thể hiện cụ thể trong mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ. Chính phủ có nghĩa vụ với nhân dân, đồng thời có những quyền theo quy định của pháp luật để thực thi công quyền mà nhân dân giao phó; ngược lại, nhân dân vừa có quyền, đồng thời có nghĩa vụ đối với Chính phủ. 
         Điều đáng lưu ý là việc Nhà nước, Chính phủ tiến hành các hoạt động nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân, thì đồng thời, đó cũng chính là nhằm tạo điều kiện để nhân dân có thể tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước và Chính phủ phải thể hiện ý chí quyền lực của dân, mưu cầu hạnh phúc cho dân, phấn đấu đem lại lợi ích cho dân, thoả mãn những nhu cầu hợp lý của các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Đó là một Nhà nước dân chủ và tiến bộ. Những lợi ích và nhu cầu đó phải được thực hiện một cách công bằng, dân chủ, văn minh, chính đáng, bảo đảm sự kết hợp hài hòa giữa phát triển các cá nhân với mục tiêu phát triển xã hội. Đồng thời, phải chăm lo giải quyết những vấn đề bức xúc hằng ngày của dân tộc, của đất nước.
Quan điểm về quyền làm chủ nhà nước và xã hội của nhân dân đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập hết sức đầy đủ và sâu sắc. Theo Người, cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì vậy, vấn đề cốt tử là làm sao để nhân dân thực sự làm chủ vận mệnh của đất nước. Để quyền làm chủ của nhân dân được bảo đảm và thực thi trong cuộc sống, cần xây dựng và hoàn thiện thể chế, phương thức và cơ chế thực hiện. Người chỉ rõ, phải xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, trong đó nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua nhà nước dân chủ và các đoàn thể do chính họ lập ra và quản lý. Theo đó, nhân dân vừa là người cử ra chính quyền các cấp, vừa là người quản lý, kiểm tra, kiểm soát toàn bộ hoạt động của bộ máy quyền lực đó. Đến nay, các quan điểm này của Người vẫn giữ nguyên giá trị và có ý nghĩa thực tiễn to lớn đối với nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân; nhất là khi chúng ta tiến hành xây dựng một “Chính phủ kiến tạo, liêm chính và phát triển” trong kỷ nguyên toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ở thế kỷ XXI.

             Vấn đề xây dựng “Chính phủ kiến tạo” ở nước ta hiện nay

         Quan niệm về Nhà nước kiến tạo hay Chính phủ kiến tạo phát triển được tác giả Chalmers Ashby Johnson đưa ra từ những năm 1980 của thế kỷ trước. Theo ông, đây là một mô hình quản lý nhà nước, trong đó nhà nước, quan trọng nhất là chính phủ đề ra các chính sách mang tính định hướng phát triển, tạo môi trường và điều kiện cho các chủ thể, thành phần kinh tế phát huy mọi tiềm năng trong môi trường cạnh tranh và hội nhập quốc tế. Chính phủ tăng cường kiểm tra, giám sát để phát hiện kịp thời những vấn đề nảy sinh trong quá trình quản lý, có thể xảy ra tình trạng mất cấn đối trong nền kinh tế, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Mô hình Nhà nước, Chính phủ kiến tạo phát triển không làm thay người dân, mà tạo khuôn khổ thể chế và điều kiện cần thiết để từng công dân, tổ chức, danh nghiệp có thể mưu cầu và đáp ứng quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của mình. Điều quan trọng là phải xây dựng một “nhà nước, chính phủ nhỏ nhất nhưng hiệu quả cao nhất”, và “một xã hội lớn nhất” để người dân tự tổ chức cuộc sống của mình. Xã hội hóa đang là một bước đi cụ thể theo hướng này, xã hội hóa không chỉ để huy động các nguồn lực to lớn từ xã hội, mà còn để trả lại cho xã hội những chức năng, những công việc mà xã hội có thể làm tốt hơn “so với nhà nước”. Ngoài ra, để xây dựng một nhà nước, chính phủ “nhỏ nhất có thể”, cần phải làm cho bộ máy hoạt động chuyên nghiệp hơn, hiệu quả hơn. Chính phủ kiến tạo phải làm cho người dân thực sự “hiểu và thành thạo trong sử dụng quyền lực” của mình. Mở rộng dân chủ, bảo đảm sự tham gia của người dân vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách… Ngày nay, mô hình nhà nước, chính phủ kiến tạo đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển bền vững của nhiều quốc gia. Ở các nền kinh tế phát triển trên thế giới thường kết hợp “bàn tay vô hình”, tức quá trình tự vận động “theo quy luật” của nền kinh tế thị trường và “bàn tay hữu hình”, sự can thiệp, định hướng “hợp quy luật” của Nhà nước, Chính phủ. Chính phủ kiến tạo phát triển phải cân bằng hai yếu tố “bàn tay vô hình và bàn tay hữu hình”. Chính phủ sử dụng các công cụ kinh tế, chính sách, “lợi thế” để tổ chức thị trường sao cho khuyến khích được mọi cá nhân và tổ chức tham gia vào phát triển kinh tế - xã hội. Một minh chứng rõ ràng cho sự thành công của mô hình này là sự phát triển “thần kỳ” của các quốc gia Đông Á, đứng đầu là hai nền kinh tế lớn ở châu Á hiện này là Nhật Bản, Hàn Quốc và nhóm các quốc gia “mới nổi”, trong đó đặc biệt là Xin-ga-po. Tuy nhiên, không phải quốc gia nào trên thế giới xây dựng mô hình này cũng thành công. Trên thực tế, nếu áp dụng “máy móc”, không căn cứ vào những điều kiện cụ thể, đặc thù của mỗi quốc gia thì mô hình này dễ làm nảy sinh và tạo điều kiện cho các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, kìm hãm sự phát triển của quốc gia... 
         Nhiều nhà lãnh đạo, quản lý và nghiên cứu ở nước ta cho rằng chúng ta đang đi những bước đầu tiên trên con đường chuyển đổi từ mô hình “nhà nước, chính phủ quản lý toàn diện” sang mô hình “kiến tạo phát triển”. Xây dựng mô hình này đòi hỏi tuân thủ đầy đủ các quy luật kinh tế thị trường và các cam kết hội nhập quốc tế là một tất yếu khách quan, “bước nhảy vọt” trong nhận thức về mối quan hệ giữa chính trị - kinh tế; Nhà nước, Chính phủ - thị trường, cũng như trong thực tiễn quản lý nhà nước. Thuận lợi lớn nhất trong quá trình xây dựng mô hình này ở nước ta là ở chỗ những đặc trưng và yêu cầu nêu trên cũng chính là nội dung, công cụ, động lực và mục tiêu của công cuộc đổi mới toàn diện, phát triển kinh tế và tích cực hội nhập quốc tế của nước ta từ khi đổi mới đến nay. Đặc biệt, được nhấn mạnh và làm rõ hơn trong các văn kiện tại nhiều kỳ Đại hội của Đảng - đó là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; được thể chế hóa trong Hiến pháp và một loạt các luật định liên quan đã và đang được điều chỉnh, triển khai theo tinh thần đó; cũng như các Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới mà Việt Nam đã và đang đàm phán, ký kết, tham gia… Khó khăn trên hành trình xây dựng mô hình này ở nước ta cũng không ít, đòi hỏi trí tuệ, bản lĩnh và cả sự dũng cảm vượt qua nhận thức và quán tính về một nhà nước, chính phủ vốn quen hoạt động như “nhà đầu tư lớn, nhà quản lý lớn, người cung ứng dịch vụ lớn và cũng là người sở hữu lượng tài sản xã hội lớn nhất”. Những thói quen này khiến chúng ta đang phải đối diện với nhiều hệ lụy không thể khắc phục trong ngày một ngày hai. Đó là căn bệnh mãn tính “nghiện quản lý” và rất dễ dẫn đến tình trạng lạm quyền, nặng có thể dẫn tới “tha hóa quyền lực chính trị”, “cha chung không ai khóc”, “lối hành xử méo mó, tùy tiện” do bị chi phối bởi lợi ích nhóm và tư duy nhiệm kỳ, bệnh thành tích, hình thức, phổ biến… Nợ công, nợ xấu, tham nhũng và lãng phí có xu hướng ngày càng gia tăng cả về quy mô, tính chất và hậu quả. Văn hóa kinh doanh, văn hóa chính trị - xã hội xuống cấp; tham nhũng, lãng phí đang trở thành “quốc nạn” làm suy yếu và cạn kiệt nguồn lực và sức mạnh của quốc gia trên con đường phát triển.
         Những nỗ lực đột phá về cải cách thể chế, cắt giảm thủ tục hành chính để cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia đánh dấu một bước chuyển quan trọng trong cách nghĩ và cách làm trên hành trình xây dựng mô hình “Nhà nước, Chính phủ kiến tạo” ở nước ta. Đặc biệt, chúng ta đang tích cực triển khai Luật Tổ chức chính quyền địa phương; hoàn thiện mô hình bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực và tích cực thực hiện tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; phân cấp mạnh và rõ hơn giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương theo hướng “việc nào do cấp nào quản lý và giải quyết sát thực tiễn hơn thì giao nhiệm vụ và thẩm quyền cho cấp đó”; khắc phục tình trạng bỏ trống hoặc trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực giữa các bộ, ngành; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, tính thống nhất, thông suốt trong tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương các cấp. Theo đó, chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp rõ ràng, đồng bộ và nhất quán, mang tính hiện đại, theo kịp trình độ phát triển luật pháp và thông lệ quốc tế. Các thủ tục hành chính phải đơn giản hóa, công khai, công bằng, thống nhất, nhanh chóng và trực tiếp. Việc phân định nhiệm vụ, quyền hạn trong hệ thống cơ quan hành chính phải gắn liền với tăng cường trách nhiệm trực tiếp và cuối cùng; bảo đảm mọi tài sản xã hội, mọi công việc của Chính phủ đều có người chịu trách nhiệm cá nhân cụ thể, rõ ràng; tạo lập cơ chế phòng ngừa và trấn áp tham nhũng có hiệu lực. Phát triển hệ thống tư pháp và thực hiện rộng rãi tự do báo chí, ngôn luận, hội họp. Thường xuyên tiến hành “thanh lọc” bộ máy nhà nước, chính phủ từ trên xuống dưới. Tăng cường trang bị cơ sở vật chất - kỹ thuật cho công tác quản lý nhà nước. Hiện đại hóa các công nghệ quản lý, đi đôi với nâng cao đạo đức, lý tưởng và năng lực nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ, công chức nhà nước...
         Thực tiễn đang đòi hỏi cần có “cuộc cách mạng thực sự” trong công tác cán bộ; đổi mới cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm, đánh giá, phân loại cán bộ, công chức phù hợp với vị trí việc làm và yêu cầu nhiệm vụ cụ thể. Cơ chế đào tạo, tập hợp và trọng dụng nhân tài đó trong tương lai phải bao hàm những khía cạnh như: “Tạo sự di chuyển chất xám tự do” trong thị trường lao động, thỏa mãn các điều kiện nuôi dưỡng tốt nhất cho nhân tài, bảo đảm nguyên tắc “người nào - việc nấy”, đề cao trách nhiệm cá nhân và năng lực sáng tạo cao nhất, để những người xứng đáng nhất cả về tài và đức được lựa chọn vào những vị trí quan trọng trong bộ máy công quyền. Trọng dụng, bảo vệ và “nuôi dưỡng” những lãnh đạo và nhân tài “đầu đàn xuất sắc”, không phân biệt thành phần xuất thân; tái lựa chọn liên tục, lấy hiệu quả công việc làm cơ sở đánh giá và lựa chọn thay vì bằng cấp, học vị, chức tước… “Di huấn” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại vẫn còn nguyên “giá trị thời sự”, đó là “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém…”.
         Ngày 04-5-2016, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã khẳng định: “Chính phủ đẩy mạnh việc chuyển phương thức chỉ đạo điều hành từ mệnh lệnh hành chính sang Chính phủ kiến tạo và phục vụ”. Bởi vì, tăng trưởng xét đến cùng là công việc của người dân và doanh nghiệp, nhiệm vụ của Chính phủ và địa phương là tạo tiền đề để người dân, doanh nghiệp có thể làm ăn ổn định, phát triển và tạo ra tăng trưởng. Đây chính là bản chất của Chính phủ kiến tạo. Mặt khác, “dân giàu" thì "nước mạnh” và để người dân làm giàu thì phải có một “Nhà nước, Chính phủ kiến tạo, liêm chính” nhằm xây dựng một nền kinh tế thị trường lành mạnh, khuyến khích người dân, doanh nghiệp làm giàu hợp pháp. Như vậy, có thể thấy, chuyển từ mô hình điều hành nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính sang kiến tạo phát triển đồng nghĩa với việc thay đổi sâu sắc tư duy về mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường. Và để có một Nhà nước, Chính phủ kiến tạo, liêm chính và phục vụ, phải có những điều chỉnh lớn mang tính “cách mạng” đối với thể chế. Thay vì can thiệp vào nền kinh tế bằng những mệnh lệnh hành chính, Chính phủ sẽ phải tập trung vào việc xây dựng, hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách cho đầu tư phát triển, bảo đảm các điều kiện cần thiết để khuyến khích các bộ phận trong nền kinh tế “phát triển hết tiềm năng”. Và điều này, ở một khía cạnh có thể hiểu là sẽ “không còn sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân” hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và cũng sẽ không còn cơ chế "xin - cho", một “căn bệnh trầm kha trong lòng xã hội”.

         Chính phủ đã chọn năm 2016 là năm quốc gia khởi nghiệp với mục tiêu tạo điều kiện tốt nhất hỗ trợ người dân tham gia các hoạt động sản xuất, kinh doanh, cũng như thúc đẩy các doanh nghiệp hiện có phát triển mạnh mẽ hơn. Mang tinh thần phục vụ người dân, phục vụ doanh nghiệp vào mọi hoạt động điều hành, mô hình “Chính phủ kiến tạo, liêm chính và phục vụ”, theo nhiều nhà phân tích, hứa hẹn sẽ mang đến một cuộc cải cách mới trong đời sống kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng nếu không đổi mới được tư duy của cán bộ, công chức thì khó có thể thay đổi được hiện trạng nền kinh tế. Do vậy, cải cách thể chế nói chung, thể chế kinh tế, chính trị nói riêng phải gắn với công tác cán bộ, tức là vấn đề con người. Chuyển từ tư duy quản lý sang tư duy phục vụ là đòi hỏi từ thực tiễn và cũng là xu hướng phát triển tất yếu. Vì vậy, mọi quyền hạn trách nhiệm của cán bộ, công chức phải được thể chế hóa trên tinh thần phục vụ người dân, phục vụ doanh nghiệp và xã hội. Không phải “ngẫu nhiên” mà ngay từ những ngày đầu của Chính quyền “non trẻ”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dùng cụm từ “công cụ phục vụ” khi nói tới vị trí, vai trò của Chính phủ và cụm từ “công bộc”, thậm chí “đày tớ” khi nói về thái độ, trách nhiệm của cán bộ, công chức đối với nhân dân. Đó chính là “tuyên ngôn rõ ràng” về sự công nhận quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước, quyền lực cao nhất trong xã hội thuộc về người dân. 
         Tóm lại, từ Nhà nước dân chủ, nhân dân (Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa) với một “Chính phủ phục vụ” người dân đến Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân (Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) với một “Chính phủ kiến tạo” đều có một “mẫu số chung” là “từ nhân dân mà ra và vì nhân dân mà phục vụ”. “Nhà nước hay Chính phủ kiến tạo” suy đến cùng bản chất không phải là một loại hình nhà nước nào khác mà chính là thực hiện “cho đúng, cho đủ” những chức năng, nhiệm vụ của một Nhà nước pháp quyền hiện đại trong kỷ nguyên toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế mà ở nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. 
         Lịch sử và thực tiễn dân tộc ta đã chứng minh rằng khi nào mà nhà nước và cán bộ, công chức đứng về phía nhân dân, bảo vệ và phát triển quyền và lợi ích chính đáng của người dân thì khi đó đất nước sẽ hưng thịnh và ngược lại có khi bị thôn tính trở thành thuộc địa và người dân rơi vào “cảnh lầm than, kiếp nô lệ”. Trong lịch sử, nhân dân sẵn sàng đi theo “Vua hiền, Tôi giỏi”, bỏ lại “vườn không, nhà trống” để tạo nên những chiến thắng, chiến công oanh liệt khiến kẻ thù xâm lược khiếp sợ trong nhiều thập kỷ. Và trong hai cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, nhân dân đã không tiếc “máu xương” để đi theo Đảng, theo Bác Hồ, theo cách mạng tạo nên những chiến công “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Vậy nên, chúng ta chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền, Chính phủ kiến tạo phát triển, liêm chính sẽ cần sự “đồng lòng và quyết tâm hành động nhất quán, triệt để” của cả hệ thống chính trị - xã hội, toàn Đảng, toàn dân, của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và mỗi người dân.
Theo TCCS

Đảng có vững, công việc mới thành công

Sau Đại hội XII của Đảng, hệ thống chính trị nước ta có nhiều chuyển biến mới, hoạt động hiệu quả hơn, được nhân dân ghi nhận. Trong thành tựu chung của đất nước, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng khẳng định: “Có sự đóng góp rất quan trọng của công tác tổ chức, cán bộ. Đây là một thực tế khách quan”. Vậy nhưng, để hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, các thế lực phản động, cơ hội chính trị vẫn xuyên tạc rằng: Đảng ta đang thất bại, thụt lùi về công tác xây dựng Đảng.

Cố tình đánh tráo khái niệm
Phạm Trần, một cây bút phản động lưu vong thường xuyên có những bài viết chống phá Đảng và Nhà nước ta gần đây đã có “phân tích” kiểu chụp mũ, "thầy bói xem voi" khi cho rằng: Đảng không còn kiểm soát được đảng viên nữa, “xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh” chỉ là khẩu hiệu… Nguyễn Quang Duy, một tác giả hải ngoại khác thì có cái nhìn thiên kiến, lệch lạc, chỉ ra “5 thất bại”, trong đó có hai điểm nói về công tác tổ chức, cán bộ, “củng cố bộ máy và duy trì tính trong sạch của bộ máy”. BBC, trên trang điện tử, thì đưa ra phân tích hồ đồ: Trong Đảng “xuất hiện nhiều dấu hiệu mâu thuẫn nội bộ sau một năm kể từ Đại hội XII”… Trên một số trang điện tử khác, các đối tượng phản động, cơ hội chính trị gần đây lại “cảnh báo” về công tác tổ chức, cán bộ khi tung hỏa mù Đảng không chỉ “khủng hoảng về đường lối” mà Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) còn thừa nhận thất bại về công tác xây dựng Đảng, công tác tổ chức, cán bộ; tình trạng “lãn Đảng, thoái Đảng” gia tăng.
Với những luận điệu trên, họ đã cố tình đánh tráo khái niệm giữa việc Đảng ta chủ động thường xuyên tự xây dựng, tự chỉnh đốn, coi đó là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng, coi phê bình và tự phê bình như đánh răng, rửa mặt hằng ngày với việc bị động trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Thái độ “nhìn thẳng vào sự thật”, chủ động “phòng bệnh hơn chữa bệnh” hoàn toàn khác và không phải “tình hình đã rất nguy”, “bệnh đã nặng hết thuốc chữa” như họ rêu rao, bịa đặt.
Tổ chức có mạnh, con người có tốt thì mới làm được
Thực tế thời gian qua cho thấy, sau Đại hội XII của Đảng, hệ thống chính trị nước ta có nhiều chuyển biến mới, hoạt động hiệu quả hơn, bức tranh kinh tế-xã hội của đất nước có những khởi sắc, được nhân dân ghi nhận.
Sau Đại hội XII, cuộc bầu cử Quốc hội khóa XIV và HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 thành công tốt đẹp, với hơn 99% cử tri đi bầu cử. Sau đó, Quốc hội kiện toàn ngay các cơ quan và các nhân sự lãnh đạo chủ chốt của Nhà nước, Chính phủ trong sự đoàn kết, đồng thuận. Trong bối cảnh có nhiều khó khăn, tăng trưởng GDP đạt 6,21%, chính trị-xã hội ổn định, đất nước thanh bình. Đầu tư nước ngoài đạt gần 15 tỷ USD. Dự trữ ngoại hối lần đầu tiên đạt 41 tỷ USD. Lần đầu tiên có đến 10 triệu lượt khách du lịch nước ngoài và 62 triệu lượt khách trong nước, doanh thu từ du lịch đạt 20 tỷ USD. Vị thế, uy tín của Việt Nam ngày càng cao, lần đầu tiên Đại hội Đảng toàn quốc có đến 252 điện chúc mừng từ các nước, các tổ chức quốc tế, nhiều nhất từ trước tới nay... Việc Đảng ta tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã thu hút cả hệ thống chính trị chúng ta vào cuộc, được nhân dân đồng tình ủng hộ cao.
Báo cáo của Ngân hàng Thế giới gần đây nhận định: “Ổn định kinh tế vĩ mô ở Việt Nam là môi trường thuận lợi để các nhà hoạch định chính sách đẩy mạnh tái cơ cấu, đây là điều kiện thiết yếu để tiến tới mô hình tăng trưởng dựa trên năng suất”… “Kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016-2020, vừa được Quốc hội thông qua, sẽ xử lý được một số bất cập phát sinh trong quá trình tăng trưởng kinh tế”.
Không thể có được nhận xét khách quan ấy nếu như đất nước không có một bộ máy quản lý, điều hành tốt và không thể có bộ máy tốt nếu không có thành công trong công tác xây dựng Đảng. Hiện nay, toàn Đảng có 67 Đảng bộ trực thuộc Trung ương, gồm 58 Đảng bộ tỉnh, 5 Đảng bộ thành phố, 4 Đảng bộ trực thuộc Trung ương. Đảng có gần 1.300 Đảng bộ cấp huyện và tương đương (gần 700 Đảng bộ huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và gần 600 Đảng bộ cấp trên cơ sở). Toàn Đảng có gần 57.000 tổ chức cơ sở Đảng, với hơn 23.000 Đảng bộ cơ sở và hơn 33.000 chi bộ cơ sở; gần 1.700 Đảng bộ bộ phận, hơn 254.000 chi bộ trực thuộc Đảng ủy cơ sở với tổng số gần 3,8 triệu đảng viên, chiếm hơn 4% dân số cả nước. Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện sâu rộng trên mọi mặt của đời sống xã hội.
Phải khẳng định rằng, những thành tựu trên không phải là đột biến, bất thường mà bắt nguồn từ mạch nguồn không ngừng chảy trong công cuộc xây dựng Đảng của Đảng ta. Đảng ta từ khi ra đời đến nay luôn chăm lo công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng để đáp ứng vai trò, sứ mệnh lịch sử của mình.
Hiến pháp năm 2013 và nhiều bản hiến pháp trước đó của nước ta đều hiến định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Để đáp ứng sứ mệnh ấy, Đảng ta luôn coi trọng, phát huy vai trò công tác tổ chức xây dựng Đảng như quan điểm từng được Lê-nin nhấn mạnh: “Hãy cho chúng tôi một tổ chức những người cách mạng và chúng tôi sẽ đảo ngược nước Nga”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng căn dặn trong cuốn “Đường Cách mệnh”: “Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”.
Vai trò của công tác tổ chức, cán bộ đối với sự phát triển của đất nước thời gian qua đã được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu ghi nhận tại Hội nghị toàn quốc ngành tổ chức xây dựng Đảng năm 2016: “Tổ chức có mạnh, con người có tốt, cán bộ có giỏi, thông minh, sáng tạo, được nhân dân ủng hộ, đồng lòng thì chúng ta mới làm được. Nói cách khác, trong thành tựu chung của đất nước, có sự đóng góp rất quan trọng của công tác tổ chức, cán bộ. Đây là một thực tế khách quan”.
Những đổi mới mạnh mẽ
TS Lê Văn Cương (nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược, Bộ Công an) trong một bài viết về nguyên nhân thất bại của Đảng Cộng sản Liên Xô đã nhấn mạnh việc vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng. Đi liền với đó là các bệnh tật: Độc đoán, chuyên quyền, không chấp nhận những ý kiến khác với mình; coi thường tập thể, coi thường cấp dưới khiến cho sinh hoạt đảng mất hết sinh khí, mất hết tính chiến đấu. Cơ quan lãnh đạo cấp cao quan liêu, xa rời thực tiễn, để mất quan hệ máu thịt giữa đảng và nhân dân. Những suy thoái về đạo đức, lối sống của một số lãnh đạo cấp cao gia tăng. Và khi sự thoái hóa, biến chất diễn ra tại trung tâm quyền lực của đảng thì đó chính là nguy cơ lớn, là đêm trước của sự tan rã, sụp đổ như đã xảy ra ở Liên Xô và các đảng cộng sản khác tại Đông Âu. Nguyên tắc tập trung dân chủ được ghi rõ trong Điều lệ, Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích Nga từ năm 1903 nhưng chưa có cơ chế thực thi hiệu quả. Chính vì vậy, việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, giữ vững và phát huy nguyên tắc tập trung dân chủ nói riêng, vai trò của công tác tổ chức, cán bộ nói chung vô cùng quan trọng.
Từ bài học đó nhìn vào thực tế công tác xây dựng Đảng hiện nay, cán bộ, đảng viên và nhân dân cả nước rất đồng tình, ủng hộ trước quyết tâm chính trị của Đảng ta trong việc triển khai nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Ngay tiêu đề của nghị quyết và những hành động quyết liệt của Đảng ta thời gian qua đã thể hiện rất rõ tính chiến đấu, tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, tôn trọng sự thật, nói rõ sự thật”.
Hội nghị toàn quốc ngành tổ chức xây dựng Đảng năm 2017 được tổ chức ngày 4-3-2017 vừa qua cho thấy, Đảng ta đang tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa trong công tác tổ chức xây dựng Đảng. Đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương đã chỉ ra nhiều định hướng mới trong công tác tổ chức xây dựng Đảng như: Tham mưu hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị để "một nhiệm vụ chỉ một cơ quan, một tổ chức đảm nhiệm", "một tổ chức, một cơ quan có thể làm nhiều nhiệm vụ", "một việc chỉ một người làm", "một người làm nhiều việc"; bổ sung các quy định, quy chế, hướng dẫn... bảo đảm đồng bộ, thống nhất, liên thông giữa hệ thống Đảng và hệ thống chính trị. Đặc biệt, năm 2017, ngành tổ chức xây dựng Đảng đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng “4 hóa”: Hạt nhân hóa cán bộ lãnh đạo; chuẩn hóa các văn bản pháp quy; đơn giản hóa các thủ tục hành chính; tự động hóa tổ chức thực hiện.
Đặc biệt, tại hội nghị đã có bản báo cáo giới thiệu hàng loạt mô hình, sáng kiến, cách làm mới trong công tác tổ chức xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị. Có thể kể ra hàng loạt mô hình, cách làm hiệu quả như: Đề án 25 về đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng; thực hiện tinh giản bộ máy, biên chế ở Quảng Ninh; rà soát sắp xếp lại tổ chức bộ máy ở TP Hà Nội, giảm được hàng chục phòng, hàng trăm đơn vị sự nghiệp… Nhiều cấp bộ Đảng đã có những mô hình rất hay trong công tác cán bộ như: Chương trình đào tạo nguồn quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý và chương trình công nhân ở TP Hồ Chí Minh; Đề án 500 tuyển chọn, tạo nguồn cán bộ chủ chốt xã, phường ở Quảng Nam; đề án phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Đà Nẵng; chương trình về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong hệ thống chính trị và phục vụ sản xuất, kinh doanh; quy định và cam kết xử lý trách nhiệm người đứng đầu ở Quảng Ngãi; tổ chức bồi dưỡng tiếng Việt và trình độ lý luận chính trị cho cán bộ nước bạn Lào ở Quảng Trị; hỗ trợ sinh phí 2 triệu đồng/năm cho chi bộ thôn, khu phố và mua tặng bảo hiểm y tế cho đảng viên 30 tuổi Đảng trở lên ở Hưng Yên… Trong công tác tổ chức cơ sở Đảng xuất hiện nhiều mô hình phong phú như: Kế hoạch kiện toàn các tổ chức Đảng, phát triển đảng viên và thành lập tổ chức Đảng ở các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Đắc Lắc; đề án xây dựng chi bộ kiểu mẫu gắn với xây dựng nông thôn mới và văn minh đô thị ở Hà Giang; chi bộ sinh hoạt theo chuyên đề hằng năm ở Phú Yên; phân công cán bộ trong thường vụ và cấp ủy về sinh hoạt Đảng ở vùng đồng bào dân tộc khó khăn tại Thừa Thiên-Huế, Gia Lai, Đắc Nông, Đắc Lắc; đảng viên Bộ đội Biên phòng về tham gia sinh hoạt tại các chi bộ vùng biên giới ở Quảng Trị; quy định ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ huyện ít nhất hằng quý phải có 10 ngày đi cơ sở ở Vĩnh Long; “Sổ tay điện tử trong công tác xây dựng Đảng” tại Tỉnh ủy Bình Thuận…
         Những thông tin chỉ đạo và dẫn chứng sinh động trên thêm một lần nữa minh chứng công tác tổ chức xây dựng Đảng của Đảng ta đang ngày càng đổi mới, thành công (dù vẫn còn nhiều hạn chế, khuyết điểm) nhưng thực sự đã ăn sâu bám rễ vào thực tiễn cuộc sống. Vai trò của Đảng trong công cuộc Đổi mới ngày càng được phát huy tích cực, hoàn toàn không có chuyện thất bại, thụt lùi trong công tác xây dựng Đảng như những thông tin xuyên tạc, bịa đặt.

Chủ động ngăn chặn, đẩy lùi thông tin xấu độc trên Internet, mạng xã hội hiện nay

Công cuộc đổi mới đất nước hơn 30 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đạt được những thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực; đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao. Nhu cầu được thông tin và tiếp cận thông tin của người dân luôn được chính quyền các cấp từ Trung ương đến địa phương chú trọng. Đặc biệt, sự phát triển của internet đem lại những lợi ích to lớn cho người dân và góp phần quan trọng thúc đẩy xã hội phát triển.

Theo thống kê của Trung tâm Số liệu internet quốc tế (Internetworldstats), tính đến hết tháng 6-2015, Việt Nam đã có 45,5 triệu người dùng internet, đạt mức thâm nhập/dân số là 48%; đứng thứ 6 khu vực châu Á và thứ 3 khu vực Đông Nam Á. Trung bình mỗi ngày người Việt Nam lên mạng hơn 5 giờ (đối với người dùng máy tính) và gần 3 giờ (đối với người dùng điện thoại); thời gian sử dụng mạng xã hội bằng nhiều hình thức với thời gian trung bình hơn 3 giờ. Tính đến thời điểm 1-1-2015, dân số nước ta là 90,7 triệu, song có tới 28 triệu người sở hữu tài khoản mạng xã hội (gần 31%); 128,3 triệu người có kết nối mạng di động (tương đương 141%), tức trung bình mỗi người sở hữu 1,4 thuê bao di động, trong đó sử dụng mạng xã hội qua điện thoại là 24 triệu người (chiếm 26%). Điều đó cho thấy các mạng xã hội và công cụ nhắn tin qua mạng xã hội (trong đó có facebook) được nhiều người quan tâm, sử dụng. Nếu sử dụng internet cũng như các mạng xã hội đúng mục đích và phù hợp sẽ là công cụ hữu hiệu góp phần quan trọng phục vụ công tác tuyên truyền, giáo dục đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với mỗi người dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những tiện ích internet mang lại thì mặt trái của nó không hề nhỏ. Bản chất internet là môi trường mở cho phép người sử dụng được tự do cung cấp, tìm kiếm và sử dụng thông tin, tính truyền tải nhanh, diện tham chiếu rộng, thông tin gần như tức thì, dễ tạo hiệu ứng xã hội theo chiều rộng nên rất khó quản lý và kiểm soát. Tính ưu trội của mạng xã hội còn tạo ra khả năng giao lưu, chia sẻ, kết nối cộng đồng rất thuận lợi. Đây là tính năng đặc biệt hấp dẫn đối với giới trẻ của internet. Cho nên, internet được ví như con dao 2 lưỡi chứa nhiều hiểm họa khó lường đối với người sử dụng không đúng mục đích. Thực tế, bên cạnh các thông tin bổ ích, có giá trị đối với xã hội thì còn vô số thông tin, hình ảnh có nội dung xấu độc, trái với truyền thống văn hóa dân tộc cũng được tán phát lên các trang thông tin điện tử (website), blog, mạng xã hội, trên phần phản hồi (comment) của các báo điện tử…                    Vì vậy, các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng internet và lập nhiều trang facebook để truyền bá những thông tin xấu độc, đăng tải những status trên trang facebook cá nhân với ngôn ngữ, luận điệu đầy tính kích động, phản động, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, phủ nhận thành tựu của công cuộc đổi mới, tìm mọi cách thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ ta trên mọi lĩnh vực.
Thông tin xấu độc tán phát trên internet và mạng xã hội là những thông tin bịa đặt, sai sự thật, bóp méo sự thật, xuyên tạc vấn đề, “đổi trắng, thay đen”, làm lẫn lộn đúng sai, thật giả; hoặc có một phần sự thật nhưng được đưa tin với dụng ý xấu, phân tích và định hướng dư luận bằng luận điệu sai trái, thù địch. Đó là các dạng thông tin có nội dung không phù hợp về chuẩn mực đạo đức, văn hóa, thuần phong mỹ tục như: Kích động đồi trụy, bạo lực, bôi nhọ đời tư, vu khống…; thông tin sai trái, độc hại có tính chất tội phạm tin học như: Lừa đảo trên mạng, đánh cắp thông tin, mật khẩu,tán phát vi-rút…; thông tin sai trái có tính chất chính trị như: Xuyên tạc sự thật lịch sử, phủ nhận Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chống phá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, bịa đặt, vu cáo, nói xấu các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, quân đội, công an và gây chia rẽ đoàn kết nội bộ, đe dọa an ninh quốc gia...
Tác hại của những thông tin xấu độc trên internet và mạng xã hội do các thế lực “mạng đen” tung ra có tác động tiêu cực đến tình hình tư tưởng, dư luận xã hội, gây nghi ngờ, gieo rắc sự hoang mang, dao động, làm giảm sút lòng tin của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Hệ lụy của thông tin xấu độc ảnh hưởng rất lớn đến đạo đức, lối sống, nhân cách của cá nhân và cộng đồng xã hội. Nếu đạo đức xã hội bị băng hoại, văn hóa dân tộc bị tầm thường hóa, đánh mất bản sắc, an toàn xã hội bị đổ vỡ, thì sẽ tác động mạnh đến chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng; có nguy cơ dẫn đến mất phương hướng lựa chọn các giá trị, lối sống và niềm tin của một bộ phận không nhỏ trong giới trẻ là đối tượng thường xuyên tiếp cận với facebook.

Để chủ động ngăn chặn, đẩy lùi thông tin xấu độc trên internet và mạng xã hội trong giai đoạn hiện nay là một đòi hỏi mang tính cấp thiết; trước hết cần đẩy mạnh tuyên tuyền, giáo dục để mọi người thấy rõ tính hai mặt của internet và mạng xã hội; nhận diện các thủ đoạn, nội dung thông tin xấu độc, tính chất nguy hại của nó đối với cá nhân và xã hội. Qua đó trang bị kiến thức cần thiết để mỗi người có thể tự sàng lọc, tiếp nhận thông tin hữu ích, chính thống, đồng thời “miễn dịch” với những thông tin xấu độc làm nhiễu loạn môi trường xã hội. Trong quá trình tuyên truyền, giáo dục nâng cao sức đề kháng cho mỗi người trước thông tin xấu độc trên internet và mạng xã hội, cần tiếp tục gắn chặt chẽ với tuyên truyền, thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 46-CT/TW ngày 27-7-2010 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) về “Chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại gây hủy hoại đạo đức xã hội”; Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9-6-2014 của Hội nghị Trung ương 9 (khóa XI) “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Phát huy vai trò của các tổ chức tạo thành phong trào mang tính cộng đồng hướng tới một văn hóa internet lành mạnh, sẵn sàng tổ chức đấu tranh trực diện với những thông tin xấu độc trên internet và mạng xã hội./.

Cảnh giác với những chiêu trò xuyên tạc hình ảnh Quân đội Nhân dân Việt Nam

Thời gian qua, trên một vài trang mạng xã hội xuất hiện một số thông tin, hình ảnh phản cảm được cắt ghép cho là của Quân đội nhân dân Việt Nam trong chiến tranh giải phóng và trong hòa bình.
Cần khẳng định ngay rằng đó là sự ngụy tạo trắng trợn của kẻ xấu nhằm xuyên tạc truyền thống tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam, chia rẽ tình đoàn kết máu thịt giữa cán bộ, chiến sĩ Quân đội với nhân dân.
Một trong những âm mưu, thủ đoạn nằm trong chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch là “phi chính trị hóa” Quân đội, làm cho Quân đội xa rời sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, mất dần phương hướng chính trị, không xác định được mục tiêu chiến đấu, mục tiêu bảo vệ... dẫn đến Đảng, chính quyền không còn được bảo vệ, mất vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý điều hành đất nước và tất yếu dẫn đến sự sụp đổ chế độ XHCN mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã dày công vun đắp
Trên thực tế chúng ta không thể phủ nhận những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch đã đạt được những kết quả nhất định. Bài học xương máu của Liên Xô và một số nước XHCN ở Đông Âu đã cho thấy rõ điều đó. Quân đội Liên Xô-một đội quân hùng mạnh nhất thế giới, với bề dày hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành đã bị vô hiệu hóa hoàn toàn trước những đòn thâm hiểm của mưu đồ “phi chính trị hóa”.
Đối với cách mạng Việt Nam và Quân đội nhân dân Việt Nam cũng không ngoại lệ. Đặc biệt sau khi chúng ta giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, tư tưởng “chiến thắng không cần chiến tranh” đã được chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch ráo riết thực hiện. "Phi chính trị hóa" Quân đội nhân dân Việt Nam luôn là một trong những mục tiêu nhất quán, xuyên suốt của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Để thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội, thời gian qua, các thế lực thù địch đã không từ bất cứ một thủ đoạn nào... Thế nhưng, có thể nói những đòn thâm hiểm, những thủ đoạn tinh vi mà các thế lực thù địch áp dụng nhằm “phi chính trị hóa” quân đội ta đã bị vô hiệu hóa!
Trải qua hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội nhân dân đã khẳng định luôn là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Quân đội nhân dân Việt Nam thực sự là một quân đội của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, chiến đấu vì mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, vì hạnh phúc của nhân dân. Ngày nay, trong điều kiện, hoàn cảnh mới, Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp tục được giáo dục, rèn luyện, huấn luyện, đầu tư vũ khí trang bị phát triển theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Đặc biệt, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh về chính trị, lấy đó làm cơ sở, nền tảng để nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu. Do được xây dựng vững mạnh về mọi mặt nên Quân đội nhân dân đã hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN. Cùng với toàn Đảng, toàn dân, Quân đội ta đã bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống;... Những thành quả, những chiến công mà Quân đội nhân dân đã đạt được chứng tỏ những chiêu trò hòng “phi chính trị hóa” Quân đội của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã bị vô hiệu hóa!
Thế nhưng các thế lực thù địch không dễ từ bỏ âm mưu chống phá Việt Nam. Khi mà “phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân không thực hiện được, chúng lại giở chiêu bài nói xấu, bôi nhọ hình ảnh, hạ thấp uy tín. Để thực hiện chiêu trò này, một mặt chúng đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền xuyên tạc, bóp méo những truyền thống tốt đẹp của Quân đội ta, bôi nhọ hình ảnh, phẩm chất cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ. Mặt khác, chúng tán phát tài liệu, tung tin đồn nhảm, gán ghép, ngụy tạo hình ảnh để vu cáo, nói xấu cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam...
Nhìn nhận một cách khách quan thì những hành vi lợi dụng các diễn đàn, mạng xã hội để tung ra những thông tin, hình ảnh nhằm mục đích bôi nhọ danh dự, uy tín Quân đội nhân dân là hành vi vi phạm pháp luật. Đây là một loại tội phạm không gian ảo hết sức nguy hiểm, vi phạm pháp luật Việt Nam. Mục đích của chiêu trò này không gì khác là nhằm giảm sút niềm tin của nhân dân vào Quân đội; chia rẽ khối đại đoàn kết, tạo sự hoài nghi, ngờ vực trong xã hội, đặc biệt là chia rẽ mối quan hệ đoàn kết giữa Quân đội nhân dân với nhân dân... Cùng với đó, xuyên tạc truyền thống cũng là cách để chúng đánh vào tư tưởng hòng làm giảm sút tinh thần, sức mạnh chiến đấu của Quân đội ta... Những chiêu trò ấy xét cho đến cùng đều nhằm phục vụ cho mưu đồ "phi chính trị hóa" Quân đội nhân dân Việt Nam mà các thế lực thù địch đang tiến hành.
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần phải cảnh giác, tẩy chay những thông tin độc hại, không tiếp tay cho kẻ xấu lan truyền những thông tin ảo. Nếu ai đó nhẹ dạ tin vào những tài liệu, hình ảnh ngụy tạo ấy là đã mắc mưu kẻ xấu, trúng kế của các thế lực thù địch. Để vô hiệu hóa chiêu trò này, mỗi chúng ta cần nâng cao khả năng đề kháng, không mơ hồ, chủ quan, mất cảnh giác, cần hết sức tỉnh táo để nhận rõ tính ngụy tạo, xuyên tạc của những tài liệu, hình ảnh đó... Cách tốt nhất để giúp nhân dân và cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân tỉnh táo, “miễn dịch” và nhận diện rõ sự thâm hiểm đằng sau những chiêu trò ấy là phải thường xuyên tuyên truyền, giáo dục, phổ biến, trang bị cho mọi người những kiến thức cần thiết. Nhận diện rõ âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch  giúp chúng ta luôn chủ động, nhạy bén, tích cực tham gia đấu tranh, vạch trần những âm mưu, thủ đoạn thâm hiểm, tinh vi của các thế lực thù địch. Cùng với đó thông qua công tác dân vận cần tạo môi trường thuận lợi để phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ ngày càng tỏa sáng trong điều kiện mới. Thông qua những nghĩa cử, việc làm tốt đẹp, đem lại hiệu quả thiết thực để tăng cường, củng cố niềm tin của nhân dân vào Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng./.


" Giặc nội xâm" cuộc chiến cam go, khốc liệt

     Chống tham nhũng, tiêu cực trong khu vực kinh tế Nhà nước, nhất là trong cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước là lĩnh vực rất “nóng” nhưng hết sức phức tạp, khó khăn. Với tinh thần “không có giới hạn, không có vùng cấm”, thời gian qua, nhiều vụ việc sai phạm đã và đang được đưa ra ánh sáng, được cán bộ, đảng viên và nhân dân cả nước đồng tình, ủng hộ. Thế nhưng, vẫn có những kẻ cố tình xuyên tạc, kích động sai sự thật, hòng làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước trong cuộc chiến chống "giặc nội xâm".
    Một số kẻ rất xảo trá khi một mặt thường rêu rao, chỉ trích Đảng, Nhà nước ta yếu kém trong quản lý doanh nghiệp Nhà nước nhưng ngay sau khi hàng loạt vụ việc tham nhũng, tiêu cực liên quan đến doanh nghiệp Nhà nước bị phanh phui thì họ lại lắt léo phê phán Đảng, Nhà nước và bênh vực cho những đối tượng liên quan.
    Trong vụ việc Trịnh Xuân Thanh, đã xuất hiện những kẻ “lưu manh” chính trị tung ra “hỏa mù” rằng: Hoàn toàn không có tham nhũng, chỉ là làm ăn lỗ vốn, đã có thanh tra kết luận không có dấu hiệu của tư lợi cá nhân. Từ đó, họ rêu rao: Đảng can thiệp quá sâu, cố “thổi phồng”, “đã chỉ đạo thì kiểu gì cũng có tội”. Tương tự, sau khi có các bài báo liên quan đến Thứ trưởng Bộ Công Thương Hồ Thị Kim Thoa, đã xuất hiện ngay những luận điệu như: “Mớm bóng cho dư luận bức xúc”, “sở hữu cổ phần như thế không có gì sai”, “Đảng đã ra tay thì kẻ không có tội cũng thành có tội”. Từ đó họ cho rằng, Đảng đã “lấn sân” chính quyền trong chống tham nhũng.
  Cần lưu ý, về vụ việc xử lý Trịnh Xuân Thanh, đây mới là kỷ luật về Đảng, về công tác cán bộ, chứ chưa nói đến hình sự, kinh tế, nói đến việc 3.200 tỷ đồng. Những việc đó cần phải qua nhiều khâu điều tra, xử lý. Cùng với xử lý kỷ luật Đảng thì Nhà nước, chính quyền phải có xử lý. Qua ý kiến của Tổng Bí thư, cho thấy, Đảng ta lãnh đạo chặt chẽ nhiệm vụ chống tham nhũng nhưng không bao biện, không làm thay Nhà nước.
    Bốn năm qua, trong tổng số 40 vụ án và 7 vụ việc Ban chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo đã kết luận điều tra, đề nghị truy tố 26 vụ/330 bị can; đã truy tố xét xử sơ thẩm 21 vụ/247 bị cáo, xét xử phúc thẩm 14 vụ/137 bị cáo, với mức án nghiêm khắc (7 bị cáo với 8 mức án tử hình, 14 bị cáo với 15 mức án tù chung thân, 6 bị cáo có mức án tù 30 năm, 203 bị cáo có mức án tù từ 15 tháng đến dưới 30 năm)…Việc điều tra, truy tố, xét xử rất nghiêm khắc đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh, răn đe, phòng ngừa tham nhũng, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Những con số trên cho thấy, Đảng ta đã lãnh đạo, chỉ đạo phòng, chống tham nhũng rất nghiêm minh, toàn diện, không phải “chỉ có vụ Trịnh Xuân Thanh”.