Vang mãi “Bản hùng ca Hà Nội mùa đông năm 1946”

Nhân kỷ niệm 70 năm ngày Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946-19/12/2016), sáng 16/12, tại Bảo tàng Hà Nội đã diễn ra tọa đàm chuyên đề “Bản hùng ca Hà Nội mùa đông năm 1946”.



Tư lệnh Việt Nam Giải phóng quân Võ Nguyên Giáp duyệt binh lần đầu ở Hà Nội sau khi giành được chính quyền-Ảnh tư liệu TTXVN

“Bản hùng ca Hà Nội mùa đông năm 1946” có sự tham dự của các nhân chứng lịch sử như Đại tá Vũ Tâm-Trung đội trưởng Đội Tự vệ Đồng Xuân, người trực tiếp tham gia đánh trận Đồng Xuân tháng 12/1946; bà Lê Minh Thái, Lê Hồng Ngọc-Giao liên, tham gia chiến đấu trong nội thành Hà Nội và Liên khu 3; ông Đỗ Văn Đa-Pháo thủ chiến đấu tại Pháo đài Láng đêm 19/12/1946, nơi nổ phát súng mở đầu Ngày Toàn quốc kháng chiến…Sau khi nghe các nhân chứng lịch sử, các nhà nghiên cứu lịch sử nói chuyện sôi nổi, nghiêm túc, chúng ta hiểu sâu hơn, đầy đủ hơn về sự kiện Toàn quốc kháng chiến, một dấu mốc lịch sử quan trọng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Thủ đô. Nội dung các câu chuyện của các nhân chứng lịch sử chủ yếu tập trung vào xuất phát điểm của chặng đường trường kỳ kháng chiến và quyết tâm giữ vững độc lập dân tộc của quân và dân ta. Các tham luận của các nhà khoa học đã phân tích sâu sắc ý nghĩa và giá trị lịch sử, văn hóa của lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo. Đồng thời làm sáng tỏ thêm nhiều nội dung của sự kiện Toàn quốc kháng chiến.
Phát biểu tại Tọa đàm, ông Nguyễn Tiến Đà, Giám đốc Bảo tàng Hà Nội cho biết, Tọa đàm góp phần tái hiện lịch sử Hà Nội trong 60 ngày đêm kháng chiến, những khó khăn trong việc củng cố, giữ vững chính quyền cách mạng, xây dựng lực lượng, chuẩn bị toàn quốc kháng chiến. Và một lần nữa khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, khát vọng hòa bình cùng quyết tâm giữ vững độc lập dân tộc Việt Nam.
Tọa đàm là một hoạt động ý nghĩa, tích cực góp phần vào việc tuyên truyền, giáo dục và phát huy truyền thống yêu nước, ý chí tự lập, tự cường của nhân dân ta, biểu dương sức mạnh đại đoàn kết dân tộc. Đồng thời cũng là dịp để tôn vinh các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Thủ đô đã trực tiếp chiến đấu, phục vụ trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến.


Câu nói của cô giáo nơi vùng lũ “Thà cô chết chứ không để trò chết”

Thông tin mới nhất từ Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ, tại thời điểm này (sáng 16/12), đoàn cán bộ Bộ GD&ĐT đang trên đường vào Phú Yên trao Bằng khen của Bộ và tặng quà cho các cô giáo theo chỉ đạo của Bộ trưởng. Trước đó, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã gửi thư khen ngợi, trong đó có đoạn: “Thật cảm động trước suy nghĩ của các cô giáo: “Thà cô chết chứ không để trò chết”. Thay mặt Chính phủ, tôi gửi lời biểu dương, khen ngợi các cô giáo…”.

Nếu như cách đây hai tháng, là những địa phương Bắc Miền Trung Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An thì giờ đây, Nam Miền Trung lại chìm trong mưa lũ. Tại các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên… những cơn lũ hung dữ ầm ập đổ về.
            Để nói về sự tàn phá khốc liệt, người xưa có câu: “Thủy – Hỏa – Đạo – Tặc”. Mỗi khi lũ lụt đi đến đâu là để lại sự hoang tàn đến đó. Nhà cửa, hoa màu bị hư hại. Người và gia cầm, gia súc bị lũ cuốn trôi. Và trong bão lũ, luôn nổi lên tinh thần quật cường chống trả thiên nhiên, bảo vệ tài sản và tính mạng của đồng bào nơi thiên tai tàn khốc.
Những ngày qua, trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng kể lại câu chuyện xúc động về sự dũng cảm của 4 cô giáo cùng 15 em học sinh Trường mẫu giáo An Hiệp, huyện Tuy An (Phú Yên) chống chọi trong mưa lũ.
Trên báo Dân trí, bài “Thắt tim cảnh 4 cô giáo và 15 trẻ nhỏ bu bám một cửa sổ khi lũ ập tới” kể lại: Sáng 13/12, do trời mưa nên chỉ có hơn 35 em học sinh đến lớp. Đến khoảng 12g, do mưa mỗi lúc một to, nước bắt đầu dâng lên nên ban giám hiệu gọi điện báo cho phụ huynh đón các cháu về.
Tuy nhiên, chỉ có 20 cháu được cha mẹ đón về kịp thời, 15 cháu còn lại và 4 cô giáo bị kẹt trong lớp, không thể ra ngoài được vì nước đã ngập sâu hơn 1,5m. Trong khi đó, cách trường chừng 100m, phụ huynh của các cháu đứng trên Quốc lộ 1 nhưng không thể bơi vào được vì nước to, chảy mạnh. Nước mỗi lúc dâng cao, ban đầu các cháu đứng trên bàn học và vai các cô hoặc bám vào cửa sổ. Khi nước ngập bàn học, các cô phải đưa các cháu đứng lên trên nóc tủ rồi mỗi cô trông một tủ để không bị đổ.
Cô giáo Nguyễn Thị Hòa - Phó hiệu trưởng trường Mầm non Mỹ Phú 2 nói: “Nước lên rất nhanh, ngập qua nửa khung cửa sổ, chúng tôi phải đỡ các trẻ nhỏ leo lên cửa sổ rồi cùng bu bám vào đấy chờ người ứng cứu. Lúc đó, có cháu bé hoảng sợ quá nên vùng vẫy, bị rơi xuống nước, may mà phát hiện cứu được. Nhưng nước ngày một lớn, các cháu sợ khóc thét khiến chúng tôi càng hoang mang”. Cô Hòa thuật lại.
Trên báo Tuổi trẻ viết: “Trong khi cho các cháu đu trên cửa sổ, bé Đỗ Khánh Thương (5 tuổi) đuối quá bị rơi xuống nước. Mực nước trong phòng học lúc này đã lút đầu người lớn.
            Cô Nguyễn Thị Hòa không quản hiểm nguy, lặn vớt bé Thương, đưa lên đầu tủ ngồi. Lúc đó, cô và trò ôm nhau mà khóc.“Ngày hôm trước tôi hiến máu tình nguyện, người không được khỏe thì ngày hôm sau gặp trận lũ quét. Lúc đó tôi nghĩ là làm sao đưa tất cả 13 trẻ ra khỏi lớp an toàn là được. Thà cô chết chứ không để trò chết. Đến khi lực lượng cứu hộ tiếp cận được cô trò, đưa các cháu ra ngoài, chúng tôi bật khóc vì mừng” - cô Thái Thị Tuyết Hồng nói”.
            “Thà cô chết chứ không để trò chết”. Câu nói của cô giáo Tuyết Hồng (người hôm trước vừa đi hiến máu) đã thể hiện đầy đủ lòng dũng cảm, đức hi sinh của nhiều thầy cô giáo không chỉ ở nơi đây mà còn có thể xuất hiện ở bất cứ đâu đó, nhất là với các thầy cô giáo nơi vùng sâu, vùng xa, vùng biên cương, hải đảo. Nơi mà đời sống kinh tế khó khăn, mọi hiểm họa luôn rình rập đến bất cứ thời điểm nào.
Xin cảm ơn tinh thần hi sinh và sự dũng cảm của các cô giáo. Xin chia sẻ với bà con nơi bão lũ.
Biết rằng trong cuộc sống hiện nay, vẫn còn không ít những kẻ có quyền, có chức vì lợi ích cá nhân sẵn sàng hi sinh, thậm chí chà đạp lên lợi ích cộng đồng như Dương Chí Dũng, Phạm Thanh Bình, Trịnh Xuân Thanh… thì vẫn còn đó những con người bình dị dám hi sinh thân mình vì người khác. Một lần nữa, xin được nhắc lại câu nói bất tử của thầy cô nơi bão lũ: “Thà cô chết chứ không để trò chết”.

Chủ nghĩa Mác - Lê Nin: Niềm tin trong sáng mãi lòng ta


Mặc dù chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch không ngớt tung ra những đòn tiến công chiến lược xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lê Nin nhằm làm phân tâm những người cộng sản. Bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” để thực hiện âm mưu xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, chúng đã làm cho Liên Xô và nhiều nước XHCN đi chệch hướng dẫn đến khủng hoảng và tan rã.
Trên lĩnh vực tư tưởng, chúng ra sức tuyên truyền rằng CNXH là một hiện tượng “quái thai” không phù hợp với quy luật lịch sử, vì chủ nghĩa Mác đã sai lầm khi kết luận CNXH sẽ thay thế CNTB như một quá trình lịch sử tự nhiên. Hoặc là: CNXH đã ra đời ở các nước lạc hậu là không đúng theo kịch bản của Mác.
Là đỉnh cao trí tuệ của nhân loại, là thế giới quan phương pháp luận vạch phương hướng đấu tranh xóa bỏ chế độ tư bản, thực hiện mục tiêu vĩ đại giải phóng dân tộc, giải phóng con người; do đó ngay từ khi mới ra đời, các thế lực phản động gọi là “bóng ma chủ nghĩa Mác” ám ảnh châu Âu đến khi học thuyết vĩ đại này trở thành hiện thực, trở thành hệ thống XHCN hùng mạnh trên thế giới, và mỗi thành quả đạt được của CNXH càng làm cho chủ nghĩa đế quốc hằn học thì học thuyết Mác - Lê Nin càng bị lực lượng tư sản phản động tấn công điên cuồng.
Thực tế đã cho thấy cuộc Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917 và sự ra đời của chế độ XHCN ở nước Nga đã mở ra con đường giải phóng các dân tộc; giải phóng 1,5 tỷ người lao động thoát khỏi ách thống trị của CNĐQ và các giai cấp bóc lột.Con đường này hoàn toàn đối lập với con đường TBCN dựa trên việc duy trì quan hệ áp bức và bóc lột giữa các giai cấp trong một nước và giữa các dân tộc trên thế giới. Con đường mới này đồng nghĩa với sự bắt đầu của một thời đại lịch sử mới mà trong đó địa vị lịch sử của CNTB bị thách thức.
Sau khi cách mạng tháng Mười thành công đã khai sinh ra chế độ XHCN ở Nga, lập tức CNTB thế giới và các thế lực phản động đã xúm lại, muốn dùng sức mạnh quân sự gây chiến tranh để bóp chết CNXH. Chúng phát động cuộc can thiệp vũ trang của 14 nước đế quốc vào nước Nga Xô Viết non trẻ trong những năm 1918-1922. Chúng đã hướng sức mạnh tàn phá của chủ nghĩa phát xít vào tiêu diệt Liên Xô trong chiến tranh thế giới thứ hai (1941-1945). Song những nỗ lực đó của CNĐQ đều bị thất bại, CNXH ở Liên Xô vẫn đứng vững. Hơn thế nữa, CNXH đã đóng vai trò là nhân tố quyết liệt cứu loài người khỏi thảm  họa phát xít và giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc. Trong đó cách mạng Việt Nam là một bộ phận đi tiên phong.
Tính khoa học và cách mạng của CNXH thể hiện trong bản Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lê Nin đã có sức hấp dẫn to lớn sự mẫn cảm trí tuệ của Nguyễn Ái Quốc. Trên đường đi tìm chân lý cho dân tộc đã dẫn Người đến với Chủ nghĩa Mác - Lê Nin. Chủ nghĩa Mác - Lê Nin và cách mạng tháng Mười đã củng cố nhận thức tư tưởng và niềm tin vững chắc cho Nguyễn Ái Quốc. Nó tạo ra bước chuyển căn bản, then chốt về lập trường chính trị đánh dấu bước ngoặt quyết định về cuộc đời và sự nghiệp của Người và lịch sử dân tộc Việt Nam. Thực hiện bước  ngoặt đó, Nguyễn Ái Quốc đã hoàn tất chặng đường hành trình tìm đường cứu nước và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê Nin vào Việt Nam, chuẩn bị từng bước về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Mác xít ở Việt Nam, nhân tố cơ bản đầu tiên bảo đảm cho mọi thắng lợi của cách mạng nước ta.
Hơn bảy thập kỷ qua, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, người học trò xuất sắc của Lê Nin, đã vận dụng sáng tạo, linh hoạt lãnh đạo cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Thành công lớn nhất là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng nhân dân lao động. Với cuộc cách mạng bao hàm hai nội dung dân tộc và dân chủ, Đảng ta đã phát dộng phong trào cách mạng thực sự mang tính nhân dân sâu sắc, quy tụ mọi gia tầng dưới ngọn của mình ghi rõ khẩu hiệu cốt tử là: “Độc lập dân tộc và người cày có ruộng”. Tiếp theo đó là “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Nhân dân ta đã viết nên những bản hùng ca lịch sử trong thiên anh hùng ca của thời đại Hồ Chí Minh rực rỡ lịch sử dân tộc. Đó chính là trí tuệ Việt Nam được kiểm nghiệm bằng tính đúng đắn của chân lý của học thuyết Mác - Lê Nin.
Vào những năm 80 của thế kỷ XX, các nước XHCN đã bộc lộ sự trì trệ về nhiều mặt do sự quan liêu về chính trị, giáo điều trong tư duy lý luận. Việc cải tổ mô hình là cần thiết nhưng do nhận thức sai lầm về nội dung và nóng vội dẫn đến bước đi chệch hướng. Mặt khác, có những nhân tố biến chất trong ban lãnh đạo, CNĐQ đã phát hiện ra và thực hiện “ném đá giấu tay” biến bọn họ thành lực lượng  ly khai phản động. Chúng ra sức móc nối nuôi dưỡng, lôi kéo và khuyến khích rồi tăng cường hoạt động từ hai phía cả bên trong và bên ngoài chống phá để hòng xóa bỏ CNXH.
Sau khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ chúng dùng lợi dụng cơ hội đó, dùng lý luận - lô gích không ngớt rêu rao “CNXH đã cáo chung”. Chúng lập luận ngược lại rằng: Chủ nghĩa Mác khẳng định thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý; tính đúng đắn của một học thuyết, một chủ nghĩa phải được chân lý kiểm nghiệm. Chúng lập lờ đánh tráo các khái niệm để phủ định chủ nghĩa Mác - Lê Nin, bác bỏ CNXH như: Sự sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu đã bác bỏ CNXH như một học thuyết khoa học vì CNXH không có sức sống (!). Nó chỉ được nặn ra từ đầu óc ngông cuồng của những người cộng sản! Đây là một trong những lời ngụy biện của dã tâm đen tối nhằm xóa bỏ hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lê Nin giờ đây, chúng đang chuyển trọng tâm sang chống phá cách mạng Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam đã dõng dạc tuyên bố lấy chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường XHCN trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Mục tiêu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Đó là sự khẳng định dứt khoát con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Sự lựa chọn đó phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử, đáp ứng xu thế phát triển của xã hội loài người, đáp ứng lòng mong mỏi và lợi ích của toàn dân tộc. Đó chính là con đường biện chứng của lịch sử. Trước sự lựa chọn đó, các thế lực thù địch càng điên cuồng, lời lẽ chống phá càng cay độc hơn. Trước những đòn tiến công về mặt tư tưởng của các thế lực thù địch vào hệ tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vào cương lĩnh chính trị của Đảng, muốn biến chất phân tâm những người đảng viên nhằm phá hoại uy tín chính trị của Đảng. Một số cá nhân lợi dụng dân chủ để gây mất ổn định về chính trị phục vụ âm mưu chia rẽ khối đại đoàn kết trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của CNĐQ và các thế lực thù địch. Chúng ta nhớ tới lời dạy của Lê Nin vĩ đại. “Vấn đề đặt ra chỉ là như thế này: Hệ tư tưởng tư sản hoặc hệ tư tưởng XHCN. Không có hệ tư tưởng trung gian (vì nhân loại không tạo ra một hệ tư tưởng “thứ ba” nào cả)… mọi sự coi nhẹ hệ tư tưởng XHCN, mọi sự xa rời hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa đều có nghĩa là tăng cường hệ tư tưởng tư sản” và Lê Nin còn chỉ rõ “Không tiến lên tức là thụt lùi” không tiến lên chủ nghĩa xã hội… thì không thể tiến lên.
Đảng ta tiếp tục đổi mới phát huy dân chủ để lãnh đạo nhân dân ta xây dựng đất nước ta theo con đường mà Đảng, Bác Hồ đã lựa chọn “Độc lập dân tộc gắn liền với CHXH” Xây dựng một xã hội với mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

Trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa Mác Lê Nin mãi mãi vẫn là học thuyết cách mạng, khoa học và cách mạng luôn là sự đổi mới sáng tạo và khoa học. Chúng ta tin vào sức sống mãnh liệt của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin và càng tin yêu Đảng của mình. Trong cuộc đọ sức với chủ nghĩa tư bản, nhất định Chủ nghĩa Mác-Lê Nin sẽ giành thắng lợi

Tổng bí thư: Quân đội phải tuyệt đối kiên định với lý tưởng XHCN

Quân đội phải là lực lượng tuyệt đối trung thành, tuyệt đối kiên định với mục tiêu, lý tưởng, con đường XHCN - Tổng bí thư nói.

 Quân ủy TƯ - Bộ Quốc phòng hôm nay tổ chức hội nghị quân chính toàn quân 2016 tổng kết các mặt công tác quân sự quốc phòng và phong trào thi đua quyết thắng năm 2016; triển khai nhiệm vụ và phong trào thi đua quyết thắng năm 2017.
                                 Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy TƯ đã tới dự và phát biểu chỉ đạo. Cùng tham dự có ông Nguyễn Văn Nên, Bí thư TƯ Đảng, Chánh Văn phòng TƯ và nhiều lãnh đạo các ban, bộ, ngành, cơ quan TƯ. 
Trung tướng Phan Văn Giang, ủy viên TƯ Đảng, Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đã báo cáo tổng kết công tác quân sự, quốc phòng năm 2016 và những nhiệm vụ, giải pháp chính năm 2017. 
Năm 2016, Quân ủy TƯ, Bộ Quốc phòng, cấp ủy, chỉ huy các cấp đã có nhiều đổi mới, sâu sát hướng về cơ sở, bám sát và chấp hành nghiêm sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng, quản lý của Nhà nước và điều hành của Chính phủ, triển khai quyết liệt toàn diện, hoàn thành các nhiệm vụ, trong đó có nhiều nhiệm vụ hoàn thành tốt. 
Nổi bật là, thường xuyên nắm chắc tình hình, làm tốt công tác tham mưu với Đảng, chính quyền địa phương về nhiệm vụ quân đội quốc phòng, luôn chủ động phối hợp với công an và các lực lượng xử lý kịp thời các tình huống không để bị động bất ngờ, thực sự là lực lượng bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh biên giới, vùng trời, biển đảo của Tổ quốc. 
Quân đội là lực lượng chủ lực trong phòng tránh khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ cứu nạn, rà phá bom mìn, khắc phục hậu quả chiến tranh, tham gia có hiệu quả trong xây dựng cơ sở chính trị địa phương và hoạt động đền ơn đáp nghĩa; thực hiện tốt công tác đối ngoại quốc phòng. Chất lượng tổng hợp, khả năng sẵn sàng chiến đấu của quân đội được nâng lên; trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội được giữ vững, đời sống vật chất tinh thần của bộ đội ổn định, nội bộ đoàn kết thống nhất, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng. Toàn quân luôn kiên định, vững vàng tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng nhận và hoàn thành nhiệm vụ được giao. 
Năm 2017, toàn quân quán triệt nghị quyết 756 của Quân ủy TƯ về nâng cao chất lượng huấn luyện; đẩy mạnh xây dựng nền nếp chính quy, quản lý rèn luyện kỷ luật; tiếp tục triển khai thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo trong quân đội giai đoạn 2016-2020; đổi mới toàn diện, tạo sự chuyển biến cơ bản, vững chắc về chất lượng, hiệu quả giáo dục đào tạo và nghiên cứu khoa học trong các nhà trường; tập trung kiểm tra giám sát việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng gắn với thực hiện nghị quyết TƯ 4 khóa 12. 
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng biểu dương những kết quả đạt được của Quân đội trong năm qua, đã góp phần cùng với đồng bào cả nước thực hiện nghị quyết Đại hội 12 của Đảng; khẳng định vai trò của Quân đội, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân. 
Tổng bí thư chỉ rõ năm 2017, năm thứ hai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng 12 và Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ 10, toàn quân cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt 5 nhiệm vụ trọng tâm. Cấp ủy, chỉ huy các cấp cần tiếp tục nghiên cứu, nắm chắc tình hình, làm tốt hơn nữa công tác dự báo, tham mưu chiến lược, phát hiện sớm, kịp thời tham mưu với Đảng, Nhà nước, Quân ủy TƯ chỉ đạo, xử lý hiệu quả các tình huống xảy ra, tuyệt đối không để bị động, bất ngờ; tiếp tục quán triệt và triển khai có hiệu quả Chiến lược bảo vệ Tổ quốc; tập trung nâng cao chất lượng huấn luyện, rèn luyện cán bộ.
Tổng bí thư nhấn mạnh, cần tiếp tục xây dựng thế trận lòng dân, xây dựng lực lượng Quân đội thực sự trong sạch, vững mạnh toàn diện; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng-an ninh, quốc phòng-an ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, chính sách phát triển kinh tế-xã hội; kết hợp chặt chẽ quốc phòng-an ninh với đối ngoại, trong đó tiếp tục làm tốt nhiệm vụ đối ngoại quốc phòng theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước. 
Cấp ủy, chỉ huy các cấp cần tiếp tục chăm lo xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh gắn với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, tạo sự đoàn kết, thống nhất cao trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ; gương mẫu đi đầu, triển khai thực hiện có hiệu quả nghị quyết TƯ 4 (khóa 11,12) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, chống suy thoái, "tự diễn biến," "tự chuyển hóa."
Quân đội phải là lực lượng tuyệt đối trung thành, tuyệt đối kiên định với mục tiêu, lý tưởng, con đường XHCN; tiếp tục triển khai thực hiện tốt chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. 
Quân đội cần đặc biệt chăm lo công tác cán bộ; quy hoạch cán bộ chỉ huy, quản lý các cấp; tiếp tục chỉ đạo thực hiện tốt công tác dân vận, tham gia xây dựng cơ sở chính trị địa phương, giúp dân xóa đói, giảm nghèo, phòng tránh và khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ, cứu nạn; nâng cao hơn nữa đời sống vật chất, tinh thần cho bộ đội và thực hiện chính sách hậu phương quân đội đồng thời, tiếp tục thực hiện Chương trình công nghiệp quốc phòng theo nghị quyết 06 và phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo. 
Tổng bí thư mong rằng, những nội dung công tác của năm 2017 sẽ được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện một cách kiên quyết, tích cực, có trọng tâm, trọng điểm, bảo đảm đạt được hiệu quả rõ rệt, thiết thực. 
Tổng bí thư tin tưởng, Quân đội nhất định sẽ hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao, mãi mãi xứng đáng với danh hiệu "Bộ đội Cụ Hồ," xứng đáng với lòng yêu mến, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Hồ Chí Minh - Tấm gương mẫu mực về tính kỷ luật và tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình

     Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ vĩ đại của toàn Đảng, toàn dân ta; là người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế. Cuộc đời hoạt động vô cùng trong sáng và đẹp đẽ, vô cùng phong phú và sôi động của Người đã trở thành biểu tượng của lương tâm và khí phách con người Việt Nam. Trong công việc và cuộc sống đời thường, Hồ Chí Minh cũng là một tấm gương mẫu mực về tính kỷ luật, tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình trên tình đồng chí thương yêu lẫn nhau.
Sau 10 năm hội nhập vào cuộc sống lao động và phong trào đấu tranh của quần chúng ở châu Âu, châu Mỹ, châu Phi, Người đã tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm thấy con đường cứu dân, cứu nước. Từ đó, Người hiến dâng toàn bộ thời gian, sức lực và trí tuệ phấn đấu cho lý tưởng cao đẹp là sự nghiệp đấu tranh để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người.
Từ hiểu biết sâu sắc về truyền thống yêu nước Việt Nam, vốn kiến thức phong phú về văn hoá phương Đông, Người tiếp thu những tinh hoa của nền văn hoá phương Tây và đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, đỉnh cao của trí tuệ nhân loại. Và cũng chính vì vậy mà Hồ Chí Minh đã tiếp thu những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin một cách có chọn lọc để vận dụng và phát triển sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Để từ đó, trong hoàn cảnh nào, Người cũng kiên quyết đấu tranh cho quan điểm đúng đắn của mình, cả về chiến lược và phương pháp cách mạng, về lý luận và chỉ đạo thực tiễn phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng.
Một trong những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam từ buổi đầu thành lập Đảng là giải quyết đúng đắn, hợp lý mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp để đem lại hiệu quả cao nhất cho phong trào cách mạng. Nhờ hiểu rõ tình hình và đặc điểm dân tộc và giai cấp ở Đông Dương, Hồ Chí Minh đã chủ trương giải quyết hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ theo kiểu riêng của Đông Dương, với bước đi và cách làm phù hợp. Nhưng sau khi được thể hiện quan điểm ấy, trong các văn kiện hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930 đã không được Quốc tế Cộng sản chấp nhận, Người đã thể hiện tính tổ chức và tính kỷ luật cao trước Quốc tế Cộng sản. Với cương vị chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng tháng 10 năm 1930, Hồ Chí Minh đã tán thành Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương do đồng chí Trần Phú khởi thảo, tán thành án nghị quyết của Hội nghị, cho dù Luận cương và án nghị quyết ấy phủ nhận những văn bản mà Hội nghị thành lập Đảng đã thông qua. Không những vậy, sau đó 6 tháng, vào tháng 4 năm 1931, Hồ Chí Minh còn có thư phê bình xứ uỷ Trung Kỳ chưa chịu đổi tên Đảng theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản. Người yêu cầu: " Tất cả mọi đảng viên và tất cả các chi bộ phải thảo luận chỉ thị của Quốc tế thứ ba và Nghị quyết của Trung ương, rồi phải ra Nghị quyết về những Nghị quyết và Chỉ thị nói trên ... có làm như thế thì mới có thể nâng cao được trình độ đảng viên, tất cả các chỉ thị và Nghị quyết mới được thi hành, tư tưởng và hành động của Đảng viên mới thống nhất”.
Nguyên tắc về tính kỷ luật ấy được Hồ Chí Minh thực hành một cách tự giác và hết sức nghiêm túc. Cho dù Nghị quyết của Hội nghị Trung ương tháng 10 năm 1930 có phần không khoa học bởi thiếu cơ sở thực tiễn và lại do chính những người từng là học trò hoặc vốn là cấp dưới của Người soạn thảo và quyết nghị. Thậm chí, không dừng lại ở việc ra Nghị quyết trên, những đồng chí ở Ban chấp hành Trung ương thời kỳ này còn có lúc coi Người chỉ như người liên lạc giữa TW với Quốc tế Cộng sản, khiến Người phải thốt lên: " công việc tôi chỉ là như "thùng thơ". Vậy nên tôi xin đổi chỗ vì "thùng thơ" thì người khác cũng làm được". Chúng tôi cho rằng sự vĩ đại của Hồ Chí Minh chính là ở điều rất đời thường này: mặc dù Hồ Chí Minh đúng mà bị hiểu sai, song trong khi các đồng chí chưa hiểu (do trình độ chưa tới, do áp dụng máy móc chỉ thị từ Mát- xcơ-va) đã biểu quyết tập thể, Người nghiêm chỉnh phục tùng đa số, phục tùng một cách tự giác, theo đúng tinh thần của người cộng sản.
Thực tế nghiệt ngã của cuộc đấu tranh và nhất là trước nguy cơ của một cuộc chiến tranh phát xít ngày một tới gần, Quốc tế Cộng sản và những người cộng sản Việt Nam đã dần dần nhận ra chân lý. Từ tháng 10 năm 1936, những văn kiện của Đảng Cộng sản Đông Dương đã tiếp cận được với tư tưởng Hồ Chí Minh, và tới Hội nghị Trung ương tháng 5 năm 1941, tư tưởng Hồ Chí Minh và nhận thức của Trung ương Đảng đã hoàn toàn thống nhất.
Nhờ bản lĩnh chính trị vững vàng và tính tổ chức kỷ luật mà Hồ Chí Minh đứng vững và vượt qua được thời kỳ gian truân ấy, thời kỳ mà Người đã phải sống trong tình trạng: "không hoạt động và giống như là sống ở bên cạnh, ở bên ngoài của Đảng". Sau này, trở thành người lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Hồ Chí Minh vẫn luôn luôn gương mẫu chấp hành pháp lệnh Nhà nước và kỷ luật của tổ chức, đồng thời yêu cầu cán bộ các cấp phải rèn luyện để thực sự trở thành công bộc, thành đầy tớ của nhân dân. Gần đây, Quốc hội nước ta thông qua nhiều đạo luật, thể chế hoá quyền dân chủ bằng pháp luật để thay thế cho các sắc lệnh. Trước thành tựu ấy, có người cho rằng sinh thời Hồ Chí Minh chỉ chăm lo đức trị mà ít chú ý pháp trị. Chúng tôi không tán thành ý kiến này. Bởi vì xét hoàn cảnh thực tế, trong khi đang tập trung chống Pháp rồi chống Mỹ, Hồ Chí Minh và Quốc hội không thể có điều kiện tập trung ban hành các bộ luật như Quốc hội hiện nay được: Và với Hồ Chí Minh, chúng ta tin rằng dù có điều kiện ban hành đầy đủ pháp luật, thì quan điểm đức trị vẫn cứ được tôn trọng, dù không thể thay thế cho pháp trị. Trong tập thơ Nhật ký trong tù người đã từng nhắc: "Không dùng quyền uy, chỉ dùng ân nghĩa. Tuy nhiên, với Hồ Chí Minh ân nghĩa hoàn toàn không phải là quan hệ riêng tư của một số người, mà ân nghĩa chính là quyền lợi dân chủ cho đại đa số nhân dân, Người nói: "Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm, Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta".
Là lãnh tụ tối cao của dân tộc, nhưng Hồ Chí Minh chưa bao giờ tự cho mình quyền đứng trên nhân dân. Người luôn tự coi mình và các cộng sự là đầy tớ của nhân dân, và đòi hỏi những đầy tớ ấy phải lấy ý nguyện của dân làm mục đích hoạt động. Năm 1952, Người nói: "Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch một nước đều là phân công làm đày tớ cho dân". Theo Hồ Chí Minh, để làm tròn nhiệm vụ phục vụ nhân dân, điều trước tiên đòi hỏi người cách mạng là phải tự mình rèn luyện đạo đức, phẩm chất. Không phải ngẫu nhiên mà ngay từ những năm 20, mở đầu các bài giảng tại các lớp huấn luyện cán bộ tại Quảng Châu (Trung Quốc), Hồ Chí Minh lại bắt đầu từ mục: "Tư cách người cách mệnh", và trong những tư cách ấy, tính tổ chức, kỷ luật và đạo đức của người cán bộ phải được đặt lên hàng đầu.
Dám làm, dám chịu trách nhiệm là tư cách đạo đức của Hồ Chí Minh. Cuối thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng ta chủ trương thực hiện cải cách ruộng đất để giải phóng nông dân. Đường lối, mục đích cải cách ruộng đất của Hồ Chí Minh và của Đảng là hoàn toàn đúng đắn. Nhưng rồi do một số sai lầm trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện mà cải cách ruộng đất đã phạm sai lầm, dẫn tới tổn thất uy tín của Đảng và hạn chế thắng lợi ở nông thôn. Khi phát hiện sai lầm, Hồ Chí Minh đã kiên quyết chỉ đạo sửa chữa và bản thân Người cũng nghiêm khắc tự kiểm điểm. Ngày 25 tháng 8 năm 1956, trong lời khai mạc Hội nghị Trung ương khoá II lần thứ 10 mở rộng, Hồ Chí Minh đã nói: "Vì ta thiếu dân chủ nên nghe ít, thấy ít, nên bây giờ ta phải dân chủ. Tôi nhận trách nhiệm trong lúc sóng gió này. Tất cả Trung ương phải nghe, thấy, nghĩ, làm như thế. Bài học đau xót này sẽ thúc đẩy chúng ta". Hồ Chí Minh là người cộng sản Việt Nam đầu tiên tiếp cận với chủ nghĩa Mác-Lênin, và cũng chính Người đã chủ tâm học tập ở chủ nghĩa Mác-Lênin hai điều quan trọng. Hai điều ấy, như chính Người đã từng bộc bạch: thứ nhất là học phép biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin và thứ hai là muốn hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin phải sống với nhau có tình có nghĩa.
Ngày 7 tháng 6 năm 1968, khi bàn với một số cán bộ về việc xuất bản lại sách Người tốt, việc tốt nhằm động viên và khuyến khích mọi việc làm tốt đẹp trong nhân dân, Hồ Chí Minh đã nói: "Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa... Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin". Và cho đến những lời dặn cuối cùng trong bản Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân, Hồ Chí Minh lại ân cần nhắc nhở Đảng phải giữ gìn kỷ luật, đoàn kết, nâng cao tinh thần đấu tranh phê bình và tự phê bình, nhưng sự phê bình ấy "phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau". Chúng tôi có thể viện dẫn ra đây hàng trăm mẩu chuyện người thật, việc thật đã xẩy ra và đang được lưu truyền trong nhân dân, trong cán bộ, đảng viên về tấm gương mẫu mực về tự phê bình và phê bình của Bác Hồ, những mẩu chuyện ấy thể hiện sinh động sự ứng xử văn hoá và đầy nhân văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thể hiện sự nhất quán giữa lời nói và hành động của Người. Trong các câu chuyện ấy, luôn luôn thấy Hồ Chí Minh là người rất nghiêm khắc với bản thân mình, tự phê bình nghiêm túc và khi phê bình luôn xuất phát từ "tình đồng chí thương yêu lẫn nhau"- chính cái "văn hoá phê bình" ấy làm cho tất thẩy mọi người khi được Hồ Chí Minh phê bình đều dễ dàng tiếp thu và quan trọng hơn là quyết tâm để sửa chữa điều được phê bình, góp ý. Trong cuộc đấu tranh để tồn tại và phát triển, không chỉ riêng các chính đảng tư sản, mà ngay cả một số đảng anh em bè bạn ta cũng đã từng trải qua các cuộc thanh trừng nội bộ khốc liệt. May mắn thay, Đảng Cộng sản Việt Nam và dân tộc Việt Nam có một lãnh tụ kiên quyết mà nhân hậu, đã đứng mũi chịu sào hứng bao sóng gió hiểm nguy, nhưng lấy TÌNH NGƯỜI làm trọng. Bài học này, truyền thống này mãi mãi còn giữ nguyên giá trị, mãi mãi là cái cẩm nang để duy trì sức mạnh của một đảng cầm quyền. Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước hôm nay, Đảng ta và nhân dân ta đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Nhưng vận hội và thử thách, thời cơ và nguy cơ luôn luôn đan xen. Học tập tấm gương cao đẹp Hồ Chí Minh về tính kỷ luật, tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình là một việc làm thiết thực để Đảng ta chỉnh đốn và tự đổi mới, làm trọn nhiệm vụ lãnh đạo toàn dân xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, thực hiện ý tưởng cao đẹp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là giải phóng con người.


"Lực lượng vũ trang đi đầu trong đấu tranh chống suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"

Ngày 11-12, Chủ tịch nước Trần Đại Quang cùng Đoàn đại biểu Quốc hội TP Hồ Chí Minh đã tiếp xúc cử tri lực lượng vũ trang trên địa bàn thành phố. Dự buổi tiếp xúc, có đồng chí Đinh La Thăng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy TP Hồ Chí Minh, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội TP Hồ Chí Minh; đại diện lãnh đạo TP Hồ Chí Minh, Quân khu 7. Sau khi nghe báo cáo kết quả kỳ họp thứ hai, Quốc hội khóa XIV, cử tri đã phát biểu nhiều ý kiến chung quanh các vấn đề: Việc chậm ban hành nghị định, thông tư hướng dẫn trong khi luật đã ban hành, gây lúng túng cho việc triển khai; cần gắn phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng - an ninh từ chiến lược chung đến từng lĩnh vực, dự án cụ thể.
Thay mặt Đoàn đại biểu Quốc hội TP Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Trần Đại Quang phát biểu ý kiến bày tỏ trân trọng tiếp thu và ghi nhận các ý kiến của cử tri lực lượng vũ trang TP Hồ Chí Minh. Nhân dịp kỷ niệm 72 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và 27 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân; 70 năm Ngày toàn quốc kháng chiến, thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chủ tịch nước gửi tới các đại biểu cử tri lực lượng vũ trang trên địa bàn, cùng cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cả nước lời thăm hỏi ân cần, những tình cảm thân thiết và lời chúc mừng tốt đẹp nhất. Chủ tịch nước Trần Đại Quang nêu rõ, năm 2016, triển khai Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng, đất nước đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng - an ninh, đối ngoại, qua đó nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, trước mắt vẫn còn nhiều khó khăn thách thức. Tình hình thế giới có nhiều diễn biến mới, phức tạp, khó dự báo, đe dọa an ninh các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ bộc lộ rõ nét, hoạt động của số đối tượng cơ hội chính trị, chống đối công khai, trắng trợn và nguy hiểm hơn. Xuất hiện nhiều loại tội phạm mới, nhất là tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm ma túy, tội phạm có tổ chức. Xuất hiện nhiều thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống, nhất là chiến tranh mạng, làn sóng di cư, an ninh nguồn nước, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu gia tăng. Chủ tịch nước Trần Đại Quang cho rằng, việc tăng cường thực hiện nhiệm vụ quốc phòng - an ninh chính là yếu tố tiên quyết để triển khai tốt mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế của đất nước. Chủ tịch nước nhấn mạnh, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đang đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi lực lượng vũ trang nhân dân phải chuẩn bị tốt về mọi mặt, sẵn sàng chiến đấu cao, bảo vệ vững chắc chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, không để bị động trong bất cứ tình huống nào. Chủ tịch nước nhấn mạnh, cần gắn việc thực hiện tốt các chương trình hành động thực hiện nghị quyết Đại hội XII của Đảng và các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước về quốc phòng, an ninh với việc đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, thi đua quyết thắng; thực hiện tốt chức năng là đội quân công tác, tham gia làm tốt nhiệm vụ vận động nhân dân chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tích cực tham gia xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và phòng, chống thiên tai, phòng, chống tội phạm. Mỗi cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang đóng quân trên địa bàn TP Hồ Chí Minh phải sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào. Chủ tịch nước cũng yêu cầu các lực lượng vũ trang tăng cường công tác nắm tình hình, nâng cao chất lượng phân tích, dự báo ngày càng đúng, trúng hơn để tham mưu có hiệu quả hơn. Cần phản bác kịp thời các luận điệu thù địch, đặc biệt là luận điệu đòi “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang nhân dân. Phải luôn có tinh thần sẵn sàng chiến đấu cao, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.

Chủ tịch nước nhấn mạnh, vấn đề xây dựng Đảng trong lực lượng vũ trang có ý nghĩa rất quan trọng. Các đơn vị, lực lượng vũ trang đóng quân trên địa bàn phải hết sức coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng vũ trang trong sạch, vững mạnh, kiên quyết, kiên trì đấu tranh với các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Quân ủy T.Ư và Đảng ủy Công an T.Ư đã hứa với Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đồng chí Tổng Bí thư và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước là lực lượng vũ trang sẽ là lực lượng đi đầu trong việc triển khai, thực hiện Nghị quyết T.Ư4 (khóa XII) về xây dựng Đảng. Lực lượng vũ trang TP Hồ Chí Minh cũng phải quyết tâm là lực lượng đi đầu của thành phố trong đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Nghị quyết lần này rất cụ thể và đã quán triệt trong toàn quốc. Lực lượng vũ trang thành phố phải quán triệt, nhận thức một cách thống nhất, hành động một cách kiên quyết. Từng tập thể, cá nhân phải tự liên hệ, tự kiểm điểm có hay không có những biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", nếu có phải khắc phục ngay. Chú trọng công tác phòng ngừa, ngăn chặn, có sự kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, trên cơ sở đấu tranh cũng là để tự hoàn thiện mình, xây dựng mình ngày càng trong sạch, vững mạnh. Chủ tịch nước nêu rõ: "Kẻ thù không bao giờ mong chúng ta mạnh. Chúng có rất nhiều âm mưu thâm độc, xảo quyệt hòng chuyển hóa chế độ chính trị của đất nước ta, muốn lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam... Mục tiêu của “diễn biến hòa bình” là làm sao để những người Cộng sản tự diễn biến, tự chuyển hóa. Âm mưu của các thế lực thù địch là hết sức thâm độc, xảo quyệt nhưng chúng có làm được hay không là tùy thuộc ở chúng ta. Nếu chúng ta xây dựng được nội bộ trong sạch, vững mạnh thì kẻ thù không làm gì được”. 

Là đảng viên của Đảng thấy kẻ xấu bôi nhọ Đảng mình mà vẫn dửng dưng

Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ hiện nay có thể nói đã đến mức nghiêm trọng, không còn là cá biệt.
Tự diễn biến tức là sự yếu kém của mỗi người không có khả năng để tự bảo vệ chân lý, lẽ phải, những vấn đề lý luận quan trọng nằm trong ý thức hệ của dân tộc, của Đảng. Nói cụ thể hơn là bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng như thế nào trong công cuộc đổi mới, hay dao động về lập trường tư tưởng, vào hùa một cách vô ý thức, thậm chí có những suy tính cá nhân, cơ hội, vụ lợi. Vô hình chung tiếp tay cho kẻ thù, các thế lực chống đối để chúng tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng, tấn công vào sự nghiệp đổi mới của chúng ta hiện nay. Nguy hại hơn là làm mất đoàn kết, gây nên tình trạng không thống nhất về tư tưởng, quan điểm, dẫn đến không thống nhất về hành động, làm suy yếu Đảng từ tư tưởng đến tổ chức.
Tự diễn biến có cả vấn đề về nhận thức, trong hành vi, phát ngôn, trong thái độ phê bình và tự phê bình, trong thái độ đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không phê phán. Là đảng viên của Đảng thấy kẻ thù bôi nhọ Đảng mình mà vẫn dửng dưng, thậm chí vào hùa, hoặc có thể bằng việc này, việc khác, vô hình chung tiếp tay cho kẻ thù phá hoại nền tảng của Đảng. Điều đó rất đáng lên án, phê phán. Đó cũng là mối lo trong công tác giáo dục tư tưởng chính trị trong Đảng, trong việc giữ gìn, thống nhất, đoàn kết, hành động trong Đảng.
Tự chuyển hóa là tự từ bỏ vị trí, chỗ đứng của mình là một người cách mạng, người đảng viên cộng sản để trở thành kẻ đồng lõa với kẻ xấu, cái ác trong xã hội. Sự chuyển hóa này làm cho họ đánh mất phẩm chất, nhân cách, đánh mất ý thức chính trị và bản lĩnh chính trị của mình, dần dần làm cho Đảng mất đi sức chiến đấu. Nếu trong toàn Đảng không vững mạnh thì điều này là nguy cơ thách thức sinh lực của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Tự chuyển hóa làm cho đảng viên đánh mất lý tưởng và mục tiêu, chệch khỏi con đường xã hội chủ nghĩa hoặc tán thành tự giác hoặc không tự giác với âm mưu thủ đoạn phá hoại của kẻ địch.

Lần này, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII vạch ra 27 biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. 27 biểu hiện này gắn kết với nhau như quan hệ nhân – quả. Phải vượt qua được 27 biểu hiện này thì Đảng mới trong sạch, vững mạnh và có sức chiến đấu. Muốn như vậy phải giáo dục, thống nhất nhận thức ý chí hành động, đồng thời phải kiểm soát được tình hình. Vì vậy, Đảng phải rất chú trọng kỷ cương, tổ chức kỷ luật, thực hiện nghiêm chỉnh những quy chế, điều lệ Đảng từ phát ngôn đến hành động.
MỆNH LỆNH BẢO VỆ ĐẢNG QUANG VINH BÁC HỒ VĨ ĐẠI


Từ khi ra đời đến nay Đảng đã tập hợp và lãnh đạo nhân dân ta làm nên những thành tựu vẻ vang trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Đó là thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc; là thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Những thắng lợi vĩ đại ấy đã đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ bản thân; đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đã vươn lên, vượt qua ngưỡng nước nghèo, vững bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.Thực tiễn 86 năm qua khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Có Đảng, đất nước ta mới có độc lập tự do, nhân dân ta mới có cơm no áo ấm. Song, trong quá trình lãnh đạo đất nước, nhất là gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, bản thân Đảng đang đứng trước nhiều thử thách, không ít hạn chế, yếu kém chậm được khắc phục, làm giảm lòng tin của nhân dân.Trong khi đó, yêu cầu nhiệm vụ chính trị của đất nước đặt ra ngày càng nặng nề; các thế lực thù địch, phản động vẫn thâm độc tìm mọi cách điên cuồng chống phá, hòng hạ thấp uy tín, đi đến đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng ta. Hơn bao giờ hết, để xứng đáng là người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng, Đảng phải không ngừng đổi mới, chỉnh đốn, giữ vững bản chất cách mạng; vững vàng về chính trị, tư tưởng, thống nhất về ý chí và hành động, trong sạch về đạo đức và lối sống.Tự hào về Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại, mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên phải phát huy cao độ truyền thống vẻ vang của Đảng, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc - phục vụ nhân dân, xứng đáng là chỗ dựa vững chắc, niềm tự hào, tin yêu của nhân dân; thực hiện thật tốt Nghị quyết TW4 khóa XI về xây dựng Đảng, gắn với đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị hãy nêu cao tính tiền phong, gương mẫu, thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh quyết liệt với các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, lãng phí; kiên quyết đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; ra sức xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.Tự hào về Đảng quang vinh, chúng ta nguyện một lòng trung thành với Đảng, vững bước đi tiếp con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.