HOẠT ĐỘNG CHỐNG PHÁ NƯỚC TA CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH THÔNG QUA CHIẾN LƯỢC "DIỄN BIẾN HÒA BÌNH"

Một trong những âm mưu thâm độc và tinh vi mà các thế lực thù địch bên ngoài cấu kết với phần tử phản động trong nước đã và đang thực hiện đó là chiến lược “Diễn biến hoà bình”. 
            Bản chất và âm mưu thâm độc của chiến lược diễn biến hoà bình do các thế lực thù địch sử dụng ở nước ta là: núp dưới những hình thức, thủ đoạn “hoà bình”. Đây là cuộc chiến tranh không có biên giới, vì nó diễn ra trong mọi mặt đời sống xã hội, từ từ thẩm thấu qua các chiêu bài chủ yếu như: lợi dụng phương tiện thông tin  đại chúng, tình báo, thư, tiền, hàng..... lợi dụng tôn giáo, dân tộc để kích động gây bạo loạn  lật đổ... Những thủ đoạn, nội dung diễn biến hoà bình mà các thế lực thù địch đã sử dụng ở nước ta thường là: thực hiện tổng hợp các biện pháp, chống phá trên mọi mặt của đời sống xã hội từ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội đến quốc phòng, an ninh và sẵn sàng gây bạo loạn lật đổ.
Cụ thể như:
            - Về chính trị tư tưởng: các thế lực thù địch coi đây là mặt trận hàng đầu để tập trung chống phá. Chúng chống phá về hệ tư tưởng, quan điểm đường lối của Đảng, xuyên tạc đi đến hạ bệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính trị và thể chế chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo... từ đó gây “tự diễn biến”, khủng hoảng về chính trị, làm chệch hướng và sụp đổ chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta; chống phá, đánh vào tổ chức, nhân sự nội bộ của ta; kích động vấn đề dân chủ, nhân quyền, bôi xấu chế độ; chúng tiến hành xuyên tạc, phủ nhận thành tựu cách mạng, thành tựu đổi mới của dân tộc ta.
            - Các hoạt động phá hoại về kinh tế, tài chính: trong các thủ đoạn diễn biến hoà bình, kẻ địch xác định mặt trận kinh tế là mũi nhọn. Chúng chống phá đường lối, chính sách kinh tế; thúc đẩy chuyển hoá cơ cấu kinh tế, thành phần kinh tế, xâm nhập, chiếm lĩnh các địa bàn, các lĩnh vực kinh tế quan trọng...; từ đó thúc đẩy, chuyển hóa nền kinh tế của nước ta sang quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Mục đích là làm chuyển hoá chế độ kinh tế, qua đó làm thay đổi về chế độ chính trị của chúng ta theo con đuờng tư bản chủ nghĩa. Lợi dụng cơ chế thị trường và chính sách mở cửa, bằng mọi phương tiện, hình thức trong quan hệ với ta như: đầu tư, hội thảo, thăm quan, giảng dạy, trao đổi kinh nghiệm để tuyên truyền, kích động tư nhân hoá nhằm xoá bỏ ranh giới kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta và kinh tế thị trường TBCN, qua đó dần lái nền kinh tế của ta theo hướng TBCN.
Chống phá trên mặt trận văn hoá - xã hội: đây là lĩnh vực gần gũi nhất trong đời sống xã hội. Kẻ địch xác định đây là mảnh đất thuận lợi cho chúng thực hiện âm mưu diễn biến hoà bình. Chúng chống phá đường lối, chính sách văn hoá - xã hội; thúc đẩy sự biến đổi chệch hướng giá trị văn hoá, đạo đức; biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp; lợi dụng các mâu thuẫn, khiếu kiện, các vấn đề về dân tộc, tôn giáo, nhân quyền và dân chủ… để chống phá Đảng, Nhà nước ta; từ đó thúc đẩy sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và nhân dân ta. Trên mặt trận này chúng tập chung tuyên tuyền, kích động, khuyến khích lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền, dần dần làm suy thoái đạo đức, lối sống, thuần phong mỹ tục, bản sắc văn hóa dân tộc.... làm cho chúng ta hoang mang, xa rời lý tưởng, gây rối loạn chính trị, xã hội. Âm mưu này chúng tập trung vào những đối tượng là thanh niên, học sinh, sinh viên và giới văn nghệ sỹ hoạt động trên lĩnh vực văn hoá nghệ thuật. Lợi dụng những phương tiện liên lạc hiện đại như điện thoại di động, mạng Internet, sách báo, băng hình... để tuyên truyền văn hoá phẩm đồi trụy. Gần đây, tệ nạn ma tuý học đường, thuốc lắc phát triển cũng không nằm ngoài thủ đoạn diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch.  
          - Chống phá trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, xã hội: chúng chống phá đường lối, chính sách quốc phòng, an ninh, đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta, thực hiện mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội và công an nhân dân,… tạo bước chuyển hóa lực lượng vũ trang, sẵn sàng tạo cớ răn đe, can thiệp quân sự và xâm lược nước ta khi điều kiện chín muồi. Thủ đoạn của chúng là tranh thủ mọi thời cơ tạo ra sự biến động, mất ổn định về mặt an ninh xã hội, cấu kết với những phần tử phản động trong nước để chống phá ta, lợi dụng những vấn đề tôn giáo để gây mất ổn định và chia rẽ khối đoàn kết dân tộc.
           Có thể nói, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch vẫn mọi lúc, mọi nơi tìm mọi cách chống phá cách mạng nước ta, âm mưu của chúng ngày càng tinh vi và thâm độc. Chính vì vậy, làm thất bại hoàn toàn chiến lược “Diễn biến hoà bình”, đòi hỏi chúng ta phải có nhiều biện pháp toàn diện trên mọi mặt đời sống xã hội, phù hợp với từng điều kiện cụ thể.
          Đối với mỗi con người Việt Nam nói chung, đội ngũ cán bộ đảng viên nói riêng, phải không ngừng học tập nâng cao nhận thức, hiểu biết về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng. Trên cơ sơ đó, xây dựng cho mình bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng vào đường lối lãnh đạo và quan điểm đổi mới của Đảng. Kiên định con đường XHCN, không mơ hồ dao động trước mọi luận điệu xuyên tạc, chống phá của kẻ thù. Bên cạnh đó cần xây dựng cho mình lối sống lành mạnh có văn hoá, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, truyền thống đấu tranh bất khuất kiên cường của dân tộc trong hai cuộc kháng chiến; thực hiện sống và làm việc theo pháp luật. Kiên quyết đấu tranh bài trừ những tệ nạn xã hội, không để kẻ thù lợi dụng để chống phá. Kịp thời giúp mọi người vạch mặt những thủ đoạn chống phá của địch, phân biệt đúng sai, phải trái rõ ràng và có hành động tích cực. Ngoài ra, trên mọi lĩnh vực hoạt động khác mà kẻ thù có thể lợi dụng, thì chúng ta cũng phải luôn nâng cao tinh thần cảnh giác để chống lại một cách có hiệu quả, tham gia tích cực các hoạt động của cơ quan, đơn vị và đoàn thể xã hội, có như vậy thì mọi âm mưu và chiến lược diễn biến của kẻ thù dù có thâm độc và xảo quyệt đến đâu cũng sẽ thất bại. Làm được điều đó, tức là chúng ta đã góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần xây dựng đất nước ta ngày càng giàu đẹp.

CHỐNG PHÁ ĐẢNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
CẦN PHẢI TĂNG HÌNH PHẠT NẶNG HƠN

Tình trạng hiện nay một số thanh niên do ăn chơi đua đòi, không chịu chí thú làm ăn, đã câu kết với các trang mạng phản động có máy chủ ở nước ngoài, viết phát tán nhiều bài viết kích động chia rẽ khối đại đoàn kết TOÀN DÂN TỘC.

        CHIA RẼ ĐẢNG VỚI NHÂN DÂN.
        CHIA RẼ GIỮA LƯƠNG VÀ GIÁO
        CHIA RẼ QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VỚI ĐẢNG.
        ĐÒI ĐA NGUYÊN ĐA ĐẢNG ..vvv

        Mục đích là kiếm tiền do bạn phản động chi trả, cá biệt có những đối tượng còn rất trè mới có 22 tuổi tên Dũng ở thanh hóa đã tán phát tới hàng trăm bài,ngoài ra còn không ít các tên khác theo đóm ăn tàn, không nghĩ đến truyền thống gia đình quê hương đất nước, làm vậy chẳng khác nào chúng đã tự rước voi về dầy mồ. 

        THEO TÔI TỘI DANH CHỐNG PHÁ NHÀ NƯỚC CẦN TĂNG HÌNH PHẠT NẶNG HƠN CÓ THỂ PHẠT TỪ MỘT TỶ CHO ĐẾN 5 TỶ, BỞI BỌN NÀY NÓ HOẠT ĐỘNG HIỆU QUẢ NƯỚC NGOÀI TRẢ CHÚNG NHUẬN BÚT RẤT CAO TA PHẠT NHẸ NÓ ĐÂU SỢ. CÓ NHƯ VẬY MỚI TẠO RĂN ĐE CHO NHỮNG KẺ LƯỜI BIÊNG KHÔNG LO LÀM ĂN

        Theo nghi định 174/2013/NĐ-CP mới ban hành thì theo đó tội danh chống phá Nhà nước VNXHCN trên mạng xã hội, các hành vi tuyên truyền phá hoại chống phá nhà nước CHXHCN Việt Nam, phá hoại khối đại đoàn kết các dân tộc; Tuyên truyền kích động chiến tranh xâm lược gây hận thù giữa các dân tộc và nhân dân các nước; kích động bạo lực; truyền bá tư tưởng phản động; Xuyên tạc sự thật lịch sử, phủ nhận thành tựu của cách mạng; xúc phạm dân tộc, danh nhân anh hùng dân tộc mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự sẽ bị phạt tiền từ 70 đến 100 triệu đồng.

Quy trình "thần tốc" trong bổ nhiệm cán bộ

Trong thời gian gần đây, ở một số địa phương đã để xảy ra nhiều vi phạm trong công tác cán bộ, khiến dư luận cả nước bức xúc. Đó là việc bổ nhiệm người nhà, bổ nhiệm cán bộ “thần tốc” sai quy định. Một số trường hợp cán bộ là người nhà của các lãnh đạo mà có năng lực, có trình độ được cơ quan xem xét, cân nhắc, bổ nhiệm đúng quy trình hoặc một số cán bộ trẻ có năng lực, phẩm chất thì cần được quan tâm tạo điều kiện và tiến hành bổ nhiệm sớm.
        Vấn đề bổ nhiệm người nhà, người thân là vấn đề rất bức xúc hiện nay nên chúng ta cần xem xét hết sức cụ thể, không thể vơ đũa cả nắm về vấn đề này. “Người nhà, người thân không có tội, quan trọng là làm việc như thế nào. Có thể nêu một vài ví dụ như ở Mỹ (Bush cha, con), hay ở Singapore, ở Ấn Độ, Triều Tiên… dư luận không hề bức xúc về việc cha truyền con nối. Vấn đề là cán bộ trẻ, người nhà, người thân… có đạo đức, phẩm chất, năng lực như thế nào, đào tạo như thế nào, rèn luyện ra sao, đã trải  nghiệm thực tiễn chưa để xứng đáng với công việc được đề bạt.
       Quan điểm của Đảng về công tác cán bộ cũng cần phải có 3 độ tuổi, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo trẻ, có uy tín. Tuy nhiên, vấn đề lâu nay dư luận quan tâm, bức xúc là một số trường hợp bổ nhiệm người nhà, bổ nhiệm “thần tốc” sai quy định. Đây là vấn đề rất nghiêm trọng. Đối chiếu với 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII thì cả người được bổ nhiệm và người có thẩm quyền được bổ nhiệm đều vi phạm vào những biểu hiện suy thoái. Cụ thể, đối với người có thẩm quyền bổ nhiệm thì vi phạm vào một số nội dung trong các biểu hiện suy thoái như: Sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi và biểu hiện thao túng về công tác cán bộ. Rồi biểu hiện sử dụng quyền lực được giao để phục vụ cho lợi ích cá nhân. Còn đối với người được bổ nhiệm thì vi phạm một số biểu hiện suy thoái đạo đức như: chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể. Đây là biểu hiện của tham vọng chức quyền, thậm chí là tìm cách vận động, tác động tranh thủ phiếu bầu, phiếu tín nhiệm cho cá nhân mình một cách không lành mạnh.
      Lâu nay trong bổ nhiệm người ta hay nói về quy trình. Quy trình không có tội, không có khuyết điểm. Vừa qua nhiều cấp, nhiều ngành đã tìm nhiều cách để hoàn thiện các quy trình một cách chặt chẽ, dân chủ, công khai và chọn cho đúng người. Nhiều trường hợp nói đã thực hiện đúng quy trình, nhưng là chưa đúng quy trình, làm tắt, làm sai hoặc làm méo mó quy trình. Ví dụ, trước cuộc bỏ phiếu, có nhiều cuộc  họp kín, trò chuyện, thủ thỉ… làm méo mó quy trình, không còn là quy trình nguyên bản. Trước đây, quy trình không nhiều như thế, chọn ai đúng người đó, đúng người đúng việc. Còn bây giờ, qua rất nhiều quy trình nên mới có trường hợp “con voi  chui lọt lỗ kim”, làm sai lệch bản chất vấn đề. Do đó, cái gốc của vấn đề vẫn là suy thoái nên phải chống suy thoái
     Việc bổ nhiệm người nhà, bổ nhiệm cán bộ “thần tốc” sai quy định trước hết sẽ gây dư luận không tốt đến cán bộ, đảng viên ở cơ quan đó. Sau đó làm ảnh hưởng đến uy tín của tập thể lãnh đạo và cá nhân vị lãnh đạo có thẩm quyền quyết định, xa hơn là ảnh hưởng đến tổ chức Đảng, làm giảm lòng tin đối với cá nhân người được bổ nhiệm, sau đó là chế độ. Việc bổ nhiệm sai quy định cũng dẫn đến mất đoàn kết nội bộ nếu có sự phản đối. Nếu không có sự phản đối lại là biểu hiện đoàn kết xuôi chiều, ngại đấu tranh, “bằng mặt nhưng không bằng lòng”, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Một hệ quả nữa là gây mất động lực phấn đấu trong cán bộ trước hết là ở cơ quan đó, khi người có năng lực, trình độ không được quan tâm, không được tạo điều kiện, trong khi người không đủ điều kiện, lại được bổ nhiệm “thần tốc”. Từ đó tạo ra một số cán bộ không có năng lực chuyên môn hoặc uy tín thấp, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả công việc ngay tại cơ quan, đơn vị đó.

Những yếu tố tác động và yêu cầu nâng cao bản lĩnh chính trị của quân nhân trong thời kỳ mới




1. Những yếu tố tác động

- Tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp

    Trong những năm tới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng dự báo tình hình chung sẽ còn diễn biến phức tạp và bất trắc, khó lường. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Chiến tranh cục bộ, xung đột và chạy đua vũ trang, xung đột sắc tộc tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ, biển đảo, tài nguyên và cạnh tranh kinh tế tiếp tục diễn ra gay gắt. Những vấn đề toàn cầu như an ninh truyền thống và phi truyền thống, an ninh mạng, an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai dịch bệnh… có nhiều diễn biến phức tạp.

    Các quốc gia có sự điều chỉnh chiến lược phát triển, tăng cường liên kết, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh, nhất là trong thương mại, đầu tư, nhân lực, khoa học, công nghệ.

     Khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động, nhưng tiềm ẩn nhiều nhân tố dễ gây mất ổn định, là khu vực cạnh tranh quyết liệt về chiến lược giữa các nước lớn; tranh chấp chủ quyền biên giới, lãnh thổ, biển, đảo sẽ diễn biến phức tạp hơn. Cộng đồng ASEAN tiếp tục phát triển và hội nhập sâu rộng, nhưng phải đối mặt với một số thách thức từ bên trong và nhiều thách thức từ bên ngoài.

     Hội nhập quốc tế của nước ta ngày càng sâu rộng, nhất là hội nhập kinh tế. Việc thực hiện các Hiệp định thương mại tự do đã có và tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, cùng với việc hình thành cộng đồng ASEAN mở ra nhiều cơ hội thuận lợi cho phát triển, nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn, thách thức.

- Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và vũ khí công nghệ cao

    Hiện nay, sự bùng nổ của công nghệ thông tin làm cho thông tin có thể đến với cán bộ, chiến sĩ và nhân dân từ nhiều nguồn, nhiều chiều, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng vấn đề này phẩm để tuyên truyền, xuyên tạc, kích động chống phá Đảng, Nhà nước và Quân đội ta, nhất là trên mạng Internet nhằm truyền bá lối sống thực dụng, hình thành tâm lý sùng bái đồng tiền, đua đòi hưởng lạc, làm phai nhạt mục tiêu, lý tưởng, sa sút niềm tin vào Đảng, vào chế độ xã hội chủ nghĩa…

     Nguy cơ chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo và việc sử dụng vũ khí công nghệ cao, khả năng phản ứng nhanh, hủy diệt lớn…, sẽ tác động trực tiếp đến nhận thức, tư tưởng, bản lĩnh chính trị, niềm tin chiến thắng của quân nhân.

- Sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đạt được thành tựu quan trọng, nhưng còn nhiều khó khăn, thách thức.

Qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, tạo những điều kiện thuận lợi để ổn định và phát triển, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Tuy nhiên, cũng cần nhận rõ những nguy, thách thức đan xen, tác động phức tạp, nhất là khi tham gia hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

    Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng hiện có. Trong 10 năm gần đây, chất lượng hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp; phát triển chưa bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, tiềm ẩn những nhân tố và nguy cơ mất ổn định.

      Mặt trái của nền kinh tế thị trường tạo ra sự phân hóa giàu, nghèo, sự chênh lệch, khác biệt về mức sống, lối sống, ảnh hưởng đến tư tưởng, tâm lý, tình cảm của cán bộ, chiến sĩ quân đội; cùng với đó, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị, chống đối tiếp tục đẩy mạnh chống phá cách mạng nước ta, tác động xấu đến nhận thức, tình cảm của quân nhân, ảnh hưởng trực tiếp đến việc nâng cao bản lĩnh chính trị, niềm tin vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

- Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu tham nhũng, lãng phí chưa được ngăn chặn, đẩy lùi.

    Đảng ta đã chỉ rõ: Hiện nay, “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc…”. Trên thực tế, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành, gây bức xúc trong xã hội và là thách thức lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước.

    Tình trạng trên có nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do những nguyên nhân chủ quan: “Cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu, quên đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân dân. Việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các nghị quyết, chỉ thị, quy định về xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở một số nơi chưa đến nơi đến chốn; kỷ cương, kỷ luật không nghiêm, nói không đi đôi với làm, hoặc làm chiếu lệ”. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp, các ngành, kể cả cấp Trung ương, chưa nêu gương về đạo đức, lối sống, giảm sút sức chiến đấu và thiếu kiên quyết phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

     Trong quân đội, còn một số biểu hiện thụ động, trông chờ, dựa dẫm, ỷ lại tập thể, sợ trách nhiệm, ngại khó khăn gian khổ; nội bộ thiếu thống nhất, nói không đi đôi với làm… đã tác động đến việc nâng cao bản lĩnh chính trị, ý thức trách nhiệm của quân nhân phấn đấu xứng danh "Bộ đội Cụ Hồ". 

2. Yêu cầu nâng cao bản lĩnh chính trị của quân nhân

- Tạo chuyển biến tích cực về nhận thức, trách nhiệm, tinh thần tự giác, gương mẫu phấn đấu xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ”.

     Trước hết cấp uỷ, chính uỷ, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan chính trị, cán bộ chính trị các cấp phải quán triệt sâu sắc ý nghĩa quan trọng của việc nâng cao bản lĩnh chính trị của quân nhân; phát huy vai trò trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo; có cơ chế chính sách, quan tâm tạo điều kiện và khuyến khích, động viên quân nhân nâng cao ý thức tự giác, tích cực, chủ động trong học tập, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, ý thức trách nhiệm theo nội dung xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ”.

     Trên cơ sở chỉ tiêu, yêu cầu của cơ quan, đơn vị trong từng năm, từng giai đoạn, các quân nhân cụ thể hóa nội dung phấn đấu xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ”, lồng ghép với nội dung kế hoạch công tác, bản đăng ký phấn đấu của cá nhân và những việc làm cụ thể trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ; tự giác, tích cực học tập, rèn luyện; biến quá trình giáo dục, rèn luyện thành quá trình tự giáo dục, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị của mọi quân nhân trong các cơ quan, đơn vị.

- Phải gắn với việc quản lý, rèn luyện kỷ luật và chất lượng, hiệu quả thực hiện chức trách nhiệm vụ của quân nhân.

     Bản lĩnh chính của quân nhân là cơ sở, động lực tạo nên nhu cầu tự giác rèn luyện, chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật của quân đội và phấn đấu thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Ngược lại, quân nhân tự giác chấp hành nghiêm kỷ luật là điều kiện để củng cố, nâng cao bản lĩnh chính trị, ý thức trách nhiệm và chất lượng, hiệu quả công tác.

     Quá trình giáo dục, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị phải đi đôi với nâng cao năng lực làm chủ vũ khí, trang bị hiện đại, năng lực, trình độ quản lý, chỉ huy của đội ngũ cán bộ, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và chất lượng huấn luyện bộ đội; rèn luyện ý thức tổ chức kỷ luật, nền nếp tác phong chính quy, nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân; sẵn sàng nhận và hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao; kiên quyết đấu tranh với mọi biểu hiện tự do tùy tiện, nói và làm không đúng với quan điểm, đường lối của Đảng, nói một đằng làm một nẻo, thiếu ý thức tổ chức, kỷ luật, chất lượng, hiệu quả công tác thấp.

- Chủ động, thiết thực, sát đối tượng và tổ chức thực hiện chặt chẽ trong từng cơ quan, đơn vị.

    Thường xuyên đánh giá, quản lý, nắm chắc tình hình chất lượng chính trị, tư tưởng bộ đội, làm cơ sở xây dựng nội dung, chương trình giáo dục, bồi dưỡng nâng cao bản lĩnh chính trị của quân nhân sát với tình hình và yêu cầu nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, phù hợp với trình độ nhận thức, tư tưởng và chức trách, nhiệm vụ của quân nhân.

    Giáo dục bồi dưỡng toàn diện, song phải cụ thể, ưu tiên những vấn đề trọng tâm, trọng điểm liên quan trực tiếp đến nhiệm vụ của đơn vị và yêu cầu nâng cao chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện; đồng thời tăng cường rèn luyện phẩm chất nhân cách quân nhân đáp ứng yêu cầu thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.

     Cấp ủy, tổ chức đảng phải đề cao trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo; phân công trách nhiệm cho các ủy viên phụ trách và xác định nhiệm vụ cụ thể đối với các cơ quan chức năng; chính uỷ, chính trị viên, người chỉ huy chủ trì chỉ đạo và tổ chức thực hiện chặt chẽ; coi trọng việc định hướng nội dung, tiêu chí cho từng đối tượng để phát huy tính tích cực, tự giác, tự học tập, rèn luyện bản lĩnh chính trị của quân nhân. Mỗi quân nhân phải tự xác định mục tiêu, yêu cầu học tập, rèn luyện, không ngừng phấn đấu vươn lên hoàn thiện bản thân. Khắc phục mọi biểu hiện chủ quan, nhận thức giản đơn, thiếu sự quan tâm của cấp ủy, chỉ huy, hoặc triển khai thực hiện không nghiêm túc, nội dung, hình thức máy móc, thiếu sáng tạo. 

2. Một số giải pháp nâng cao bản lĩnh chính trị của quân nhân phấn đấu xứng danh "Bộ đội Cụ Hồ" trong thời kỳ mới

a) Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy để nâng cao bản lĩnh chính trị của quân nhân, phấn đấu xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” 

      Trước hết cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy các cấp phải nghiên cứu, quán triệt, nhận thức sâu sắc về tình hình nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ quân đội đang đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với việc xây dựng quân đội về chính trị nói chung, xây dựng bản lĩnh chính trị của quân nhân nói riêng; trên cơ sở đó nhận rõ trách nhiệm chính trị trong lãnh đạo, chỉ đạo việc giáo dục, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị của quân nhân phấn đấu xứng danh "Bộ đội Cụ Hồ", đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

- Đối với cấp ủy, tổ chức đảng.

       Trong nghị quyết lãnh đạo cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần có nội dung đánh giá, phân loại, quản lý chặt chẽ chất lượng chính trị, tư tưởng, nhất là bản lĩnh chính trị của quân nhân; đánh giá kết quả học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, thực hiện 5 nội dung xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ”, làm rõ những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân. Trên cơ sở đó, kịp thời có chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất chính trị, ý thức trách nhiệm cho quân nhân.

     Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác giáo dục chính trị tại đơn vị, việc thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị, Chỉ thị số 317-CT/QUTW của Thường vụ Quân ủy Trung ương và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ Đội Cụ Hồ”. Coi trọng giáo dục, rèn luyện thông qua hoạt động thực tiễn thực hiện nhiệm vụ chính trị, nhất là nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, lao động sản xuất, làm công tác dân vận, phòng chống thiên tại, cứu hộ cứu nạn và xây dựng đơn vị, địa bàn vững mạnh.

     Có biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo khắc phục khâu yếu, mặt yếu, đấu tranh chống biểu hiện ngại học tập, rèn luyện, nhận thức chính trị phiến diện, giảm sút ý chí, niềm tin, trách nhiệm, hoàn thành nhiệm vụ thấp.

    Trên cơ sở đánh giá đầy đủ, chính xác, khách quan kết quả giáo dục, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, ý thức trách nhiệm của quân nhân, cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị quan tâm bảo đảm chế độ, chính sách, nhất là đối với cán bộ, đảng viên, kịp thời động viên, khuyến khích và nhân rộng tinh thần tự giác học tập, rèn luyện trong đơn vị.

- Đối với chính ủy, chính trị viên và người chỉ huy.

   Trách nhiệm của chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy trong quá trình nâng cao bản lĩnh chính trị, ý thức trách nhiệm của quân nhân được thể hiện ở việc đề xuất chủ trương, biện pháp lãnh đạo và xây dựng, tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch hoạt động, duy trì chế độ công tác của đơn vị. Xây dựng kế hoạch riêng hoặc có thể gắn với nội dung các kế hoạch, chương trình thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch huấn luyện chiến đấu, giáo dục chính trị, bảo đảm hậu cần, kỹ thuật và phong trào thi đua quyết thắng của đơn vị. 

    Người chỉ huy phải thường xuyên phối hợp với chính ủy, chính trị viên đánh giá đúng thực chất tình hình cơ quan, đơn vị, kết quả, chất lượng giáo dục, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, ý thức trách nhiệm của quân nhân; rút kinh nghiệm, tham mưu đề xuất chủ trương, biện pháp khắc phục hạn chế khuyết điểm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo. Đặc biệt, việc nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ trì các cấp là một trong những biện pháp có ý nghĩa giáo dục sâu sắc trong cơ quan, đơn vị nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị của quân nhân.

b) Thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục chính trị nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm của quân nhân phấn đấu xứng danh "Bộ đội Cụ Hồ"

    Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị vừa là một nội dung, biện pháp cơ bản để xây dựng bản lĩnh chính trị, ý thức trách nhiệm của quân nhân. Đổi mới giáo dục chính trị phải được tiến hành toàn diện cả nội dung, chương trình và hình thức, phương pháp, phương tiện bảo đảm.

    Nội dung giáo dục phải cơ bản, hệ thống, tập trung vào trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với từng đối tượng và giai đoạn nhất định. Trước hết, phải giáo dục nhận thức sâu sắc về ý nghĩa, giá trị tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, nhận rõ sự cần thiết và khơi dậy niềm vinh dự, tự hào của mỗi quân nhân trong học tập, làm theo tấm gương đạo đức của Bác.

     Trong tổ chức học tập phải lựa chọn dung lượng nội dung phù hợp, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức, phương pháp tiến hành tích cực, chủ động, phong phú, hấp hẫn, có hiệu quả và yêu cầu cao đối với mỗi cá nhân; trong đó, có thể tập trung vào 6 nhóm đối tượng như­­ sau:

- Đối với quân nhân là cán bộ chỉ huy, quản lý đơn vị: Ngoài nội dung kiến thức cơ bản về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; cần tập trung bồi dưỡng về kiến thức chính trị, văn hóa, xã hội, gắn với nâng cao trình độ, năng lực quản lý, chỉ huy bộ đội; ý thức, trách nhiệm và phương pháp, tác phong công tác trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ, nhất là trong giáo dục chính trị và làm công tác tư tưởng đối với bộ đội; gương mẫu nói và làm đúng nghị quyết, chỉ thị của cấp trên; luôn kiên định, vững vàng về chính trị, tư tưởng, có ý chí quyết tâm cao; tôn trọng phát huy dân chủ, trí tuệ tập thể; nghiêm túc tự phê bình và phê bình; bình tĩnh, tỉnh táo, dám nghĩ, dám làm, nhạy bén, quyết đoán trong lãnh đạo, chỉ huy, đặc biệt trong những thời điểm diễn biến phức tạp của tình hình, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng, quân đội và nhiệm vụ của đơn vị. 

- Đối với quân nhân là cán bộ công tác tại cơ quan các cấp trong quân đội: Nội dung giáo dục, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị cần tiến hành đồng bộ, song trước hết phải coi trọng bồi dưỡng thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; thường xuyên củng cố nâng cao trình độ chính trị, tuyệt đối trung thành với sự lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội, không dao động về chính trị. Bên cạnh đó, tiếp tục bồi dưỡng nâng cao trình độ, kiến thức về mọi mặt; gắn chặt chẽ với nội dung giáo dục, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, ý thức trách nhiệm, năng lực hoạt động thực tiễn, phương pháp tác phong công tác của cán bộ; nhất là năng lực nhận định, đánh giá, dự báo tình hình một cách nhanh nhạy, sắc sảo với các vấn đề chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh, những vấn đề nẩy sinh trong thực tiễn, kịp thời tham mưu đề xuất cấp trên, hướng dẫn giúp đỡ đơn vị có hiệu quả.

- Đối với quân nhân làm nhiệm vụ chuyên môn, nghiệp vụ: Cùng với những kiến thức cơ bản về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước; nội dung giáo dục, rèn luyện bản lĩnh chính trị, ý thức trách nhiệm phấn đấu xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ" phải được gắn kết với yêu cầu thực thi các văn bản quy phạm pháp luật, các nguyên tắc, quy chế quy định về chuyên môn, nghiệp vụ ngành công tác; bồi dưỡng nâng cao kiến thức toàn diện, rèn luyện ý thức tổ chức, tính kỷ luật, nắm vững và thực hiện đúng nguyên tắc công tác chuyên môn, nghiệp vụ; kiên quyết bảo vệ tài sản của Nhà nước, của đơn vị, của đồng chí, đồng đội, bảo vệ tính mạng tài sản của nhân dân; gương mẫu chấp hành pháp luật của Nhà nước, kỷ luật và điều lệnh, điều lệ của quân đội, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Coi trọng việc xác định chỉ tiêu, yêu cầu và định hướng hình thức, biện pháp tự giác học tập, rèn luyện của quân nhân.

- Đối với cán bộ nghiên cứu khoa học và giảng viên trong các nhà trường: Thường xuyên tuyên truyền, giáo dục, phổ biến kịp thời các nghị quyết, chỉ thị, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, làm cơ sở nghiên cứu, vận dụng vào giảng dạy và nghiên cứu khoa học; xây dựng niềm tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, thành công của sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc; nêu cao tinh thần đấu tranh kiên quyết với những quan điểm, tư tưởng sai trái, thù địch; tích cực bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng; bồi dưỡng ý thức tích cực, tự giác tham gia các hoạt động chính trị - xã hội, nhạy cảm với những vấn đề phức tạp nảy sinh; nói, viết và làm theo đúng đường lối, quan điểm của Đảng, nghị quyết, chỉ thị của cấp trên; gương mẫu, tích cực tham gia nghiên cứu khoa học và học tập, rèn luyện, tu dưỡng bản thân.

- Đối với học viên các nhà tr­ường quân đội: Nội dung giáo dục, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị phấn đấu xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” phải toàn diện và chuyên sâu; chú trọng nội dung giáo dục nâng cao nhận thức lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, xây dựng niềm tin, lập trường giai cấp công nhân, nâng cao tinh thần cảnh giáo cách mạng; bồi dưỡng năng lực chỉ huy, quản lý đơn vị, năng lực tổ chức giáo dục, rèn luyện đối với quân nhân thuộc quyền; đồng thời, tạo dựng môi trường hoạt động thực tiễn phong phú, đa dạng; đặt ra yêu cầu cao các tình huống phức tạp và khắc nghiệt, để thử thách, rèn luyện quân nhân.

- Đối với quân nhân là hạ sĩ quan - binh sĩ: Đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp giáo dục, rèn luyện phấn đấu xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” phải bám sát trình độ nhận thức, đặc điểm tâm lý lứa tuổi, đặc điểm môi trường hoạt động quân sự của các đối tượng cụ thể ở từng cơ quan, đơn vị. Trang bị cho hạ sĩ quan - binh sĩ những kiến thức cơ bản về đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; giáo dục về quyền, nghĩa vụ cơ bản công dân, Luật nghĩa vụ quân sự, Điều lệnh quản lý bộ đội, chức trách quân nhân, nhiệm vụ và truyền thống của đơn vị. Cần chú ý những nội dung do đơn vị tự xác định phải gắn với chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm hoạt động, môi trường và địa bàn hoạt động… Đặc biệt là, lựa chọn các hình thức, biện pháp tiến hành khơi dậy khả năng sáng tạo của bộ đội thực hiện chức trách, nhiệm vụ; chú trọng các hình thức, biện pháp giáo dục, rèn luyện thông qua hoạt động thực tiễn, phong trào thi đua quyết thắng và các hoạt động xung kích của tổ chức quần chúng trong đơn vị.

c) Phát huy vai trò các tổ chức, các lực lượng trong quá trình nâng cao bản lĩnh chính trị của quân nhân phấn đấu xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ”

- Đối với tổ chức đảng: Các nghị quyết lãnh đạo (toàn diện hoặc chuyên đề) phải có nội dung đánh giá và có chủ trương biện pháp giáo dục, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị của quân nhân thuộc quyền. Coi trọng chất lượng sinh hoạt tổ đảng và sinh hoạt chi bộ; nêu cao tính đấu tranh tự phê bình và phê bình, nhất là việc kiểm điểm đánh giá kết quả lãnh đạo, xác định rõ nguyên nhân ưu điểm, khuyết điểm; quy rõ trách nhiệm đến từng cấp ủy viên phụ trách; lấy kết quả giáo dục, bồi dưỡng bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên và quần chúng là một trong những nội dung để đánh giá chất lượng tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên. Đồng thời làm tốt việc phân loại chất lượng tư tưởng chính trị của đảng viên, gắn với phân công cán bộ, đảng viên kèm cặp, giúp đỡ quần chúng, nhất là đối tượng cá biệt và những quần chúng yếu kém.

- Đối với tổ chức chỉ huy: Nắm vững nghị quyết của cấp ủy, xây dựng kế hoạch sát yêu cầu nhiệm vụ của đơn vị, phân công trách nhiệm đến từng cá nhân. Kết hợp chặt chẽ công tác quản lý, rèn luyện kỷ luật, xây dựng chính quy với quản lý chính trị, tư tưởng của bộ đội, nhất là trong thực hiện các nhiệm vụ đột xuất, nhiệm vụ khó khăn, phức tạp và những bộ phận phân tán nhỏ lẻ. Tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc gắn với quan tâm bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần và chế độ chính sách, kịp thời động viên, khuyến khích việc học tập, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị của quân nhân.

- Đối với cơ quan chính trị: Phát huy vai trò tham mưu, đề xuất với cấp ủy, chính ủy, chính trị viên quán triệt thực hiện nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch, hướng dẫn của cấp ủy, chính ủy, cơ quan chính trị cấp trên và triển khai thực hiện nghị quyết, chỉ thị của đảng ủy, chính ủy, chính trị viên cấp mình về giáo dục, rèn luyện quân nhân phấn đấu xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ”; đề xuất lựa chọn nội dung, vận dụng hình thức, biện pháp tiến hành sát với từng đối tượng trong cơ quan, đơn vị. Tổ chức tốt việc học tập các chuyên đề học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong toàn cơ quan, đơn vị. Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mình tiến hành chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan, đơn vị tổ chức thực hiện và trực tiếp tiến hành các hoạt động giáo dục, rèn luyện quân nhân khi được giao. Đồng thời, kiểm tra việc tổ chức thực hiện theo chức năng của cơ quan và tổng hợp báo cáo kết quả thực hiện với cấp ủy, chính ủy, chính trị viên đơn vị.

- Đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên: Phải gương mẫu học tập, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị để quần chúng noi theo. Căn cứ vào chức trách nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên để xác định trách nhiệm trong giáo dục, rèn luyện quân nhân; trong đó, đặc biệt chú trọng phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, chủ trì các cấp. Quan tâm bồi dưỡng nhân rộng cá nhân điển hình, tiên tiến; gắn với việc lựa chọn cán bộ, đảng viên tốt, có đủ năng lực, trách nhiệm trong phân công kèm cặp, giúp đỡ đối tượng cá biệt và quân nhân yếu kém phấn đấu vươn lên.

- Đối với các tổ chức quần chúng và hội đồng quân nhân: Tổ chức quần chúng và hội đồng quân nhân đều có chức năng giáo dục, rèn luyện đoàn viên, hội viên, quân nhân theo các chuẩn mực được đạo đức cách mạng, trong đó có giáo dục bản lĩnh chính trị. Do vậy, phải bám sát nội dung chỉ tiêu nghị quyết của cấp ủy đã xác định, xây dựng kế hoạch hoạt động chặt chẽ, sát chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức, trong đó có nội dung, biện pháp giáo dục, rèn luyện đoàn viên, hội viên, quân nhân. Thông qua các hoạt động xung kích, phong trào thi đua quyết thắng, các phong trào hành động cách mạng của các tổ chức quần chúng trong đơn vị và hội đồng quân nhân để tăng cường công tác quản lý, giáo dục con người và quản lý chính trị, tư tưởng của quân nhân; đồng thời rà soát, bổ sung nội dung, chỉ tiêu, đổi mới hình thức, biện pháp giáo dục, rèn luyện quân nhân đạt được các phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”. 

- Đối với địa phương và gia đình quân nhân: Các đơn vị cần chủ động phối hợp chặt chẽ với địa phương và gia đình để quản lý, giáo dục, rèn luyện quân nhân thuộc quyền. Tăng cường các hoạt động giao lưu, kết nghĩa, thâm nhập thực tế ở địa phương, thông qua tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể, các tổ chức quần chúng và gia đình quân nhân để nắm chắc hoàn cảnh gia đình, đặc điểm tâm lý, tư tưởng, nguyện vọng của quân nhân để có biện pháp giáo dục phù hợp, khơi dậy niềm tự hào về truyền thống quê hương, gia đình. Phát huy trách nhiệm của các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể, tổ chức quần chúng ở địa phương và gia đình trong quản lý, giáo dục, động viên, giúp đỡ quân nhân phấn đấu học tập, rèn luyện.

d) Phát huy tính tích cực, tự giác tự học tập, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị của quân nhân, phấn đấu xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” 

Tự học tập, rèn luyện là công việc suốt đời của mỗi con người, giúp họ không ngừng tiến bộ, trưởng thành. Tinh thần tự giác, ham học tập, rèn luyện suốt đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng cho mỗi cán bộ, đảng viên và quân nhân noi theo. Do đó, tích cực, chủ động tự giáo dục, rèn luyện luôn được coi là một phẩm chất tốt của người quân nhân. Dù được đơn vị quan tâm giáo dục, rèn luyện, nhưng quân nhân không có thái độ cầu thị tiến bộ, không tự giác học tập, rèn luyện, thì khó có thể đạt được những phẩm chất cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”.

       Đơn vị phải thường xuyên giáo dục, xây dựng động cơ đúng đắn, ý thức trách nhiệm, tinh thần tự học, tự rèn luyện của quân nhân; biến quá trình giáo dục, rèn luyện của tổ chức thành quá trình tự học tập, tự rèn luyện của quân nhân. Các cấp, nhất là ở đơn vị cơ sở phải thường xuyên làm tốt việc hướng dẫn, giúp quân nhân lập kế hoạch, xác định phương hướng, mục tiêu, yêu cầu cần đạt được trong tự học tập, tự rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, nâng cao trình độ, năng lực, phương pháp tác phong công tác. Tạo điều kiện cho quân nhân tìm hiểu, học tập các tấm gương tiêu biểu về bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống. Giúp cho quân nhân nắm được phương pháp, cách thức tự học tập, rèn luyện có hiệu quả, thống nhất giữa nhận thức, tư tưởng với hành động thực tiễn. Quan tâm xây dựng môi trường giáo dục tại đơn vị, bảo đảm đầy đủ, kịp thời các chế độ, định mức, tiêu chuẩn đời sống văn hóa, tinh thần, làm cho vấn đề tự học tập, tự rèn luyện trở thành nhu cầu tự giác của mỗi quân nhân. Kiên quyết chống những biểu hiện: Cầm chừng, đối phó, lợi dụng việc đề cao tự giáo dục, rèn luyện mà xem nhẹ vai trò định hướng, tổ chức, kiểm tra của cán bộ quản lý, từ đó thiếu tích cực chủ động trong tự học tập, tự rèn luyện.

e) Chủ động phòng ngừa và đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch, phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ quân đội.

Tuyên truyền, giáo dục cho quân nhân nhận thức sâu sắc, nhận dạng đầy đủ về âm mưu, thủ đoạn"diễn biến hòa bình", thực hiện "phi chính trị hóa" quân đội của các thế lực thù địch; quản lý, nắm chắc tình hình chính trị nội bộ, tư tưởng, dư luận trong đơn vị; giáo dục nâng cao cảnh giác, nắm vững và chấp hành nghiêm các nghị quyết, chỉ thị, pháp lệnh, các quy định về bảo đảm bí mật quốc gia, bí mật quân sự, bí mật nhiệm vụ, trọng tâm là Chỉ thị số 46-CT/TW, ngày 22/6/2015 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh, trật tự trong tình hình mới; xây dựng và thực hiện tốt các chế độ phòng gian, giữ bí mật.

Tăng cường đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, phản bác những quan điểm, thông tin luận điệu sai trái của các thế lực thù địch, cơ hội, phản động, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội; thường xuyên nắm chắc diễn biến tình hình, kịp thời thông tin định hướng tư tưởng, dư luận trong cán bộ, chiến sĩ và nhân dân, nhất là trước những sự kiện phức tạp, nhạy cảm.

        Nâng cao chất lượng xây dựng môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, phong phú, gắn với các biện pháp ngăn chặn, đẩy lùi từ xa, từ sớm mọi biểu hiện tiêu cực bên ngoài xâm nhập vào đơn vị, quân đội; chủ động phát hiện, nhận diện và đấu tranh có hiệu quả mọi biểu hiện, dấu hiệu "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ đơn vị (như: chệch hướng trong xác định chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo; lười học tập chính trị, nói và làm không đúng nghị quyết, nói một đằng làm một nẻo; vi phạm kỷ luật quân đội, pháp luật Nhà nước, làm xấu hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”; nội bộ mất đoàn kết; vi phạm nguyên tắc, mất dân chủ; tham ô, tham nhũng, lãng phí; bệnh thành tích, không trung thực, báo cáo sai; thờ ở, vô cảm trước những khó khăn của bộ đội và nhân dân; nắm không chắc nhiệm vụ; làm lộ bí mật quân sự, bí mật quốc gia…) với một thái độ kiên quyết và triệt để. Đồng thời, nâng cao chất lượng giáo dục, rèn luyện, xây dựng phẩm chất chính trị gắn chặt chẽ với bồi dưỡng, trau dồi đạo đức cách mạng, làm cho mọi quân nhân luôn trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, nói, viết và làm đúng với đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của quân đội, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên; nêu cao thần thần tự phê bình và phê bình, kiên quyết đấu tranh với mọi biểu hiện tiêu cực, sai trái; đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân tốt, sẵn sàng nhận và thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.

CHIẾN THẮNG 30/04/1975 - GIÁ TRỊ LỊCH SỬ KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC


   “Chiến thắng 30-4-1975 - Giá trị lịch sử không thể xuyên tạc” 
      Từ sâu trong tiềm thức của mình, tôi luôn tự hào là công dân của một nước có hàng nghìn năm lịch sử với những trận thắng oai hùng chống giặc ngoại xâm.
Có thể nói, xuyên suốt dải đất hình chữ S thân yêu của chúng ta là máu xương, là da thịt của những người con đã anh dũng hy sinh cho độc lập tự do của Tổ quốc. Trong suốt 30 năm kháng chiến trường kỳ chống Mỹ, đất nước ta đã trải qua biết bao mất mát đau thương. Biết bao con người đã ngã xuống để dân tộc ta ngày hôm nay được hòa bình, hai miền Nam-Bắc được thống nhất. Vậy mà vẫn có người cho rằng “không cần thống nhất hai miền Nam-Bắc”, hoặc “có thể thống nhất bằng biện pháp hòa bình”. Đây là những luận điệu hết sức sai trái, vô căn cứ, phủ định hoàn toàn những hy sinh mất mát của bao thế hệ đi trước, là có tội với những người đã “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”.
     Được ăn học, được giáo dục, được sống trong một đất nước hòa bình như ngày hôm nay đối với bản thân tôi là một điều vô cùng may mắn. Tôi đã và đang được sống dưới bầu trời xanh của hòa bình, độc lập ở một dân tộc tự do về tôn giáo, tín ngưỡng; một đất nước bình đẳng về quyền con người. Tôi tự hào về lịch sử vẻ vang, những trang sử hào hùng của dân tộc với Chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, với Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
     Hơn 40 năm qua Bắc-Nam sum họp một nhà, cả dân tộc ta đã đoàn kết, cùng nhau xây dựng một nước Việt Nam phát triển, giàu mạnh và bảo vệ vững chắc non sông gấm vóc. Là thế hệ đi sau, bản thân tôi nhận thức rõ được trách nhiệm cũng như nghĩa vụ của mình đối với sự nghiệp bảo vệ dân tộc. Không chỉ riêng tôi mà tầng lớp thanh niên Việt Nam nguyện học tập, rèn đức luyện tài, để nối tiếp truyền thống hào hùng của cha anh đi trước đã hy sinh xương máu, tuổi thanh xuân, sẵn sàng dấn thân, chấp nhận gian khổ để thế hệ trẻ hôm nay được sống trong hòa bình, tự do, độc lập như lời một bài hát: “Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta, mà cần hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay…”.




TĂNG SỨC ĐỀ KHÁNG ĐỂ NGĂN CHẶN "TỰ DIỄN BIẾN", "TỰ CHUYỂN HÓA"


 Một trong những nội dung quan trọng của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII là thảo luận, cho ý kiến và ra nghị quyết về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến," "tự chuyển hóa" trong nội bộ”.

     Triển khai thực hiện nghị quyết chính là tiến hành cuộc đấu tranh sống còn, liên quan đến sinh mệnh chính trị của Đảng, sự phát triển của quốc gia và sự tồn vong của chế độ. Cuộc đấu tranh ấy có giành được thắng lợi hay không, vấn đề tiên quyết là phải tăng cường sức đề kháng ở ngay trong nội bộ Đảng.
“Tự diễn biến” là thuật ngữ chỉ sự thay đổi về tư tưởng chính trị của con người, là quá trình đấu tranh giữa mặt tích cực và tiêu cực, giữa tư tưởng xã hội chủ nghĩa (XHCN) và tư bản chủ nghĩa (TBCN) trong nội tâm người cán bộ, đảng viên trước những tác động phức tạp của tình hình trong nước và quốc tế; khi tư tưởng chính trị chệch hướng, tất yếu làm cho cán bộ, đảng viên tự suy thoái, biến chất, dẫn đến bộ máy của Đảng, Nhà nước suy yếu, suy vong.
“Tự chuyển hóa” là sự liền kề, kế tiếp của “tự diễn biến”, là sự thay đổi về chất, từ tốt thành xấu, từ tích cực thành tiêu cực, từ cách mạng thành phản cách mạng. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của từng cá nhân nếu không được ngăn chặn kịp thời, triệt để sẽ dẫn đến tổ chức bị suy thoái, tự tan rã. Khi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn ra ở tầm vĩ mô sẽ dẫn đến sự chuyển hóa làm chệch hướng XHCN sang TBCN.
Hiện nay, với những gì đã làm được đối với các nước XHCN trước đây, các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh thực hiện “tự diễn biến” “tự chuyển hóa” đối với các nước XHCN còn lại, trong đó có nước ta. Chúng nhận định quá trình hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam, tất yếu sẽ tạo ra "khoảng trống" và mặt trái để tiếp cận, lợi dụng chống phá. Cùng với đó, một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu, lãng quên trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân, trước yêu cầu của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, của Nhà nước, các nghị quyết, chỉ thị, quy định về xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở một số nơi chưa đến nơi đến chốn; kỷ cương, kỷ luật không nghiêm, nói không đi đôi với làm, hoặc làm chiếu lệ, thậm chí nói một đằng làm một nẻo; sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, tham nhũng, ham quyền lực; bè phái cục bộ, mất đoàn kết; quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của dân… Hệ quả làm cho tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng, Nhà nước không những chưa được đẩy lùi, mà có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn.
Quân đội ta, những năm qua thường xuyên được Đảng, Nhà nước chăm lo xây dựng về mọi mặt, trước hết là xây dựng vững mạnh về chính trị, nhờ đó chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu không ngừng được nâng lên; luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ trong mọi hoàn cảnh, nhất là đã làm tốt vai trò nòng cốt, phối hợp với các ngành, các lực lượng, chủ động phòng ngừa, tích cực đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch; góp phần giữ vững ổn định chính trị, xã hội; bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Quân đội cũng là một bộ phận của xã hội, lại là lực lượng chính trị, đội quân chiến đấu tin cậy và trung thành tuyệt đối của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Do đó, để chống phá Đảng, chuyển hóa chế độ, các thế lực thù địch đã và đang tập trung thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa quân đội”, chia rẽ quân đội với Đảng, quân đội với công an và tìm cách làm "méo mó" hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ trong lòng nhân dân. Những hiện tượng vi phạm về đạo đức, lối sống, vi phạm pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội; những biểu hiện ngại khó, ngại khổ; lười học tập, nhất là học tập nghị quyết của Đảng... của một số đảng viên, cán bộ, chiến sĩ, nếu không có biện pháp chấn chỉnh, khắc phục kịp thời thì “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” sẽ có mảnh đất màu mỡ để phát triển.
Ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là nhiệm vụ “vừa cấp bách, vừa lâu dài” của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta; phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp cụ thể, thiết thực, trong đó quan trọng nhất là phải tăng cường sức đề kháng trong Đảng để ngăn chặn từ xa, ngăn chặn từ gốc những biểu hiện trên. 
Để nâng cao sức đề kháng, phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có hiệu quả, cần tập trung xây dựng các tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững chắc làm cơ sở ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ tác động từ bên ngoài. Mọi âm mưu, thủ đoạn thúc đẩy “tự diễn biến” “tự chuyển hóa” của các thế lực thù địch sẽ bị vô hiệu, nếu nội bộ Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị vững mạnh. Theo đó, đòi hỏi phải kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”. Hệ thống chính trị, nhất là Đảng và Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ phải được thường xuyên chăm lo xây dựng thực sự vững mạnh. Cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí phải được tăng cường, kiên quyết và mạnh mẽ hơn, nhằm loại bỏ những "con sâu mọt” ra khỏi bộ máy cơ quan Đảng, Nhà nước, làm trong sạch các tổ chức đảng, bộ máy chính quyền; đẩy mạnh đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa, lý luận, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Kết hợp chặt chẽ giữa chủ động ngăn chặn, phòng ngừa từ xa với chủ động tiến công làm thất bại âm mưu chống phá của các thế lực thù địch từ trong “trứng nước”. Đây là phương châm đúng đắn, thể hiện rõ tư tưởng cách mạng tiến công trong chỉ đạo cuộc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ “tự diễn biến", “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng.
Đối với quân đội, cần phải giữ vững và không ngừng xây dựng bản chất cách mạng, đặc biệt là bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc; xây dựng quân đội vừa là lực lượng chính trị, vừa là công cụ bạo lực tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; giữ vững mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước, nhân dân với quân đội. Chống “phi chính trị hóa”, chống chia rẽ trong nội bộ LLVT. Làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, không để địch cài cắm, móc nối hoạt động chống phá. Đấu tranh bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại quốc phòng của Đảng và Nhà nước; phát triển các quan hệ đối ngoại quân sự song phương và đa phương phù hợp với lợi ích quốc gia, dân tộc; củng cố tình đoàn kết, hữu nghị với quân đội các nước láng giềng nhằm tăng cường ảnh hưởng, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế; giải quyết đúng đắn mối quan hệ đối ngoại quân sự. Giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Tham mưu cho Đảng và Nhà nước xử lý mềm dẻo trên cơ sở luật pháp quốc tế những bất đồng, tranh chấp với các nước láng giềng...
Để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay, cần thực hiện nhiều giải pháp cơ bản, đồng bộ như Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đã xác định. Trên góc độ tăng cường sức đề kháng để phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, cần chú ý tới một số biện pháp sau:
Trước hết, cần tăng cường hơn nữa công tác giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm, bản lĩnh chính trị và phẩm chất đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Thực tế trong Đảng nói chung, trong quân đội và LLVT nói riêng, không ít cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cơ sở chưa thực sự nhận thức rõ về tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, cho đó là những lo lắng không cần thiết hoặc cho rằng nếu có, thì có ở địa phương, đơn vị khác chứ ở địa phương, đơn vị mình không xảy ra. Một bộ phận cán bộ, đảng viên dù nhận thức rõ nguy cơ trên, nhưng vì chủ nghĩa cá nhân mà bất chấp tất cả để vụ lợi cho riêng mình. Cho nên, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên chính là tạo được “bức tường thành” ngăn ngừa một cách hiệu quả quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Mặt khác, cũng cần phải dự báo được những tình huống phức tạp nảy sinh về tư tưởng, những vướng mắc về lý luận cần tháo gỡ và có biện pháp tổ chức lực lượng, phương tiện đấu tranh hiệu quả.
Đạo đức cách mạng là cái gốc, là phẩm chất hàng đầu của người cán bộ, đảng viên; giúp mỗi cán bộ, đảng viên gạt bỏ chủ nghĩa cá nhân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì lợi ích của Đảng, của nhân dân; nói và làm đúng với quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên của mình chính là Đảng đang tự tăng cường “sức đề kháng” để chống lại căn bệnh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đạo đức cách mạng được thể hiện bằng hành động cụ thể thông qua lời nói, việc làm thực sự gương mẫu “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Do đó, từng cán bộ, đảng viên phải không ngừng rèn luyện ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành nghiêm chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tích cực thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Cùng với đó, phải làm tốt công tác quản lý cán bộ, đảng viên; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng và bảo vệ Đảng, đây là khâu “then chốt” có tính cốt lõi trong công tác nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của LLVT và xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh, phòng chống có hiệu quả tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Các nội dung của công tác cán bộ như: Tuyển chọn, bố trí, quy hoạch; nhận xét, đánh giá; bổ nhiệm, miễn nhiệm; khen thưởng, kỷ luật; thực hiện chế độ, chính sách... đều được tiến hành khoa học, dân chủ, khách quan, công tâm. Việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ mang tính toàn diện, có chiều sâu, trọng tâm là nâng cao bản lĩnh chính trị, trí tuệ, năng lực thực tiễn và chuyên môn đảm nhiệm... Chủ động, kịp thời tiến hành công tác kiểm tra, giám sát nhằm ngăn ngừa, đẩy lùi tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, những biểu hiện manh nha của việc “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Không để xảy ra tình trạng buông lỏng nguyên tắc tổ chức của Đảng, sa sút tính chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên. Nhờ đó có tác động rất hiệu quả đến công tác phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của đơn vị.
Trong âm mưu thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đối với nước ta, các thế lực thù địch đang tận dụng tối đa sức mạnh của truyền thông, các trang mạng xã hội, mạng internet để xuyên tạc, bôi nhọ, kích động, tạo nghi ngờ, giảm sút lòng tin của nhân dân với Đảng, với Nhà nước... Do vậy, đấu tranh với quan điểm sai trái thù địch trên các trang mạng xã hội, hệ thống truyền thông là một biện pháp chính diện có tác dụng to lớn tăng cường sức đề kháng phòng, chống có hiệu quả "tự diễn biến", “tự chuyển hóa”. Qua thực tiễn cho thấy, hiệu quả, chất lượng đấu tranh chống các quan điểm, luận điểm phản động, xuyên tạc của các thế lực thù địch phụ thuộc rất nhiều vào tổ chức lực lượng và phương tiện đấu tranh.
"Tự diễn biến", "tự chuyển hóa" là  quá trình âm thầm diễn ra bên trong mỗi cá nhân, tổ chức. Cũng như căn bệnh, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” phụ thuộc vào sức đề kháng và sự “miễn dịch” của từng người. Nếu chúng ta chăm lo, bồi dưỡng, trang bị thêm các kiến thức phòng bệnh cần thiết, nhất là độ vững vàng về chính trị, độ thanh liêm về đạo đức, lối sống thì nhất định sẽ ngăn chặn và đẩy lùi được sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng chính trị trong cán bộ, đảng viên, thực hiện thành công Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng.



Nhìn lại chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (từ ngày 26/4 đến ngày 30/4):



Sau chiến thắng của quân ta ở chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Huế-Đà Nẵng, Bộ Chính trị đã nhận định: “thời cơ chiến lược đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng Miền Nam” và đã đưa ra quyết định: “phải tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí kỹ thuật và vật chất giải phóng Miền Nam trước mùa mưa”, đồng thời chiến dịch giải phóng Sài Gòn-Gia Định được Bộ Chính trị quyết định mang tên “chiến dịch Hồ Chí Minh”. Trước khi tấn công giải phóng Sài Gòn, quân ta đã tiến công Xuân Lộc và Phan Răng-đây là những căn cứ phòng thủ trọng yếu của địch để bảo vệ Sài Gòn từ phía đông.
17 giờ ngày 26/4, quân ta đã nổ súng mở đầu chiến dịch, năm cánh quân của ta đã vượt qua tuyến phòng thủ của địch để tiến vào trung tâm Sài Gòn, đánh chiếm các cơ quan đầu não của chúng. 10 giờ 45 phút ngày 30/4, xe tăng và bộ binh của ta tiến vào Dinh Độc Lập, bắt toàn bộ Nội các của Sài Gòn, Dương Văn Minh vừa lên chức tổng thống ngày 28/4 đã phải tuyên bố đầu hàng quân ta không điều kiện. Đến 11 giờ 30 phút cùng ngày, lá cờ cách mạng tung bay trên Dinh Độc Lập, báo hiệu sự toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
 Xe tăng quân ta tiến vào Dinh Độc Lập (30/4/1975)
Đại thắng mùa xuân 1975 đã chứng minh trí tuệ và tài thao lược của Đảng ta trong lãnh đạo và chỉ đạo chiến tranh cách mạng, cũng như chứng minh tinh thần quật khởi của người dân Việt Nam trong đấu tranh chống ngoại xâm. Chiến thắng đã chấm dứt ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc và chế độ phong kiến ở nước ta, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất đất nước, đồng thời mở ra một kỷ nguyên mới của dân tộc, cả nước cùng tiến lên CNXH. Thắng lợi này đã đi vào lịch sử nước ta và của thế giới, như một trang sử chói lọi ở những năm 70 của thế kỷ XX, mang tầm quốc tế, tầm thời đại sâu sắc.

30/4/1975 Ý nghĩa, tầm vóc của thời đại

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mùa xuân 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, dư­ới sự lãnh đạo của Đảng, với tinh thần chiến đấu dũng cảm, m­ưu trí và sáng tạo của quân và dân ta; với sự ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế; với sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân; quân và dân ta đã làm nên chiến thắng vĩ đại - chiến thắng 30/4/1975 đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đư­a cả n­ước tiến lên CNXH.
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, từ ngày 26/4/1975 đến ngày 30/4/1975, quân và dân ta đã tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân chủ lực, quân địa phư­ơng thuộc Quân khu 3 ngụy, những đoàn quân của các quân khu 1 và 2 chạy về cố thủ và chi viện cho địch ở Sài Gòn - Gia Định, diệt và làm tan rã khoảng 269.000 tên địch, thu 276.000 súng các loại (trong đó có 518 khẩu pháo), 409 xe tăng, thiết giáp, 858 máy bay các loại, 6.457 tàu, xuồng chiến đấu, 3.296 xe ô tô và nhiều ph­ương tiện chiến tranh khác, giải phóng hoàn toàn Sài Gòn - Gia Định, góp phần quyết định và thắng lợi giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Một trong những nguyên nhân cơ bản và chủ yếu dẫn đến thắng lợi của Đại thắng Mùa xuân 1975, mà đỉnh cao là thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc oanh liệt vào ngày 30/4/1975 do sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Điều này đư­ợc thể hiện ở chỗ: Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta anh dũng chiến đấu chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc; kiên quyết và khôn khéo sử dụng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng; thực hiện mục tiêu: Độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đ­ưa cả n­ước tiến lên CNXH. Đảng ta đã giải quyết đúng đắn và sáng tạo mối quan hệ giữa cách mạng và chiến tranh cách mạng; giải quyết thành công nhiều vấn đề cơ bản về đường lối cách mạng, xây dựng lực l­ượng cách mạng và ph­ương pháp cách mạng, về ph­ương thức tiến hành chiến tranh và về nghệ thuật quân sự; Đảng đã phát huy cao độ trí tuệ và bản lĩnh của con ngư­ời Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, để đánh thắng chiến tranh xâm l­ược của chủ nghĩa đế quốc. Đảng ta đã phát huy truyền thống yêu n­ước và lòng tự hào, tự tôn dân tộc, xây dựng, củng cố, phát triển khối đoàn kết thống nhất của toàn thể cộng đồng các dân tộc Việt Nam, phát huy cao độ sức mạnh của toàn dân tộc Việt Nam, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế, phân hoá, cô lập triệt để kẻ thù, để giành chiến thắng hoàn toàn cho dân tộc Việt Nam.
Về ý nghĩa lịch sử, với chiến thắng ngày 30/4/1975, nhân dân ta đã vĩnh viễn thoát khỏi ách nô dịch của các n­ước đế quốc, vĩnh viễn thoát khỏi hoạ đất nước bị chia cắt, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nư­ớc, bảo vệ những thành quả b­ước đầu của cách mạng XHCN ở miền Bắc, đư­a cả nư­ớc bư­ớc vào kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập tự do, thống nhất Tổ quốc và CNXH; đư­a dân tộc ta đứng vào hàng ngũ của quốc gia, dân tộc tiên phong trên thế giới.
Với chiến thắng 30/4/1975, Việt Nam chúng ta, từ một đất nư­ớc bị nư­ớc ngoài xâm chiếm, từ một dân tộc bị nô lệ, đã đứng lên giành lại đ­ược nền độc lập dân tộc sau gần một thế kỷ mất n­ước và trở thành một quốc gia độc lập, thống nhất, có đầy đủ chủ quyền đ­ược pháp lý quốc tế thừa nhận, tôn trọng; có một quân đội hùng mạnh, có nền văn hoá, khoa học, kỹ thuật đang trên đà phát triển, có vị thế quan trọng, sánh vai cùng các nư­ớc trên thế giới.
Qua cuộc chiến đấu và chiến thắng, đế quốc Mỹ xâm l­ược và bè lũ tay sai Đảng ta, nhân dân ta và quân đội ta đư­ợc rèn luyện cả về phẩm chất và năng lực, càng nhận thức đ­ược sâu sắc hơn vị trí, khả năng và sức mạnh của mình trong thời đại mới - thời đại Hồ Chí Minh.
Với chiến thắng vĩ đại này, đã tăng c­ường quan hệ hữu nghị, đoàn kết, liên minh chiến đấu giữa ba nư­ớc Việt Nam, Lào, Cămpuchia anh em, góp phần quyết định vào thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc của từng n­ước, thủ tiêu chủ nghĩa thực dân ở ba n­ước Đông D­ương, phá vỡ phòng tuyến phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc ở Đông Nam Châu á.
Đối với các dân tộc bị áp bức trên thế giới, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta thắng lợi, đã thức tỉnh, cổ vũ hàng trăm triệu ng­ười đứng lên dũng cảm đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới, giành lại độc lập dân tộc, đư­a đất nư­ớc tiến vào quỹ đạo xây dựng CNXH, đem lại cơm no, áo ấm, hạnh phúc cho nhân dân. Chiến thắng 30/4/1975, cũng chính là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin, t­ư t­ưởng Hồ Chí Minh, thắng lợi của đư­ờng lối và ph­ương h­ướng cách mạng đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, đ­ường lối gi­ương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, đư­ờng lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, tự lực, tự cư­ờng, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Đó cũng là thắng lợi của thời đại mới, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới, mở đầu bằng thắng lợi của Cách mạng Tháng M­ười Nga vĩ đại năm 1917. Thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu n­ước của nhân dân ta, đã đ­ược Đại hội lần thứ 4 của Đảng đánh giá: “Năm tháng sẽ trôi qua, như­ng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu n­ước mãi mãi đư­ợc ghi vào lịch sử dân tộc ta như­ một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tư­ợng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con ng­ười, và đi vào lịch sử thế giới như­ một chiến công vĩ đại của thế kỷ 20, một sự kiện có tầm vóc quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.
Hiện nay, đất nư­ớc ta đang ở trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, để phát huy tinh thần đại thắng mùa xuân 1975, mỗi cán bộ, đảng viên, tuổi trẻ và nhân dân ta cần ra sức phấn đấu, nêu cao tinh thần yêu n­ước, yêu CNXH, phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng; lao động, học tập và công tác một cách khoa học, có chất l­ượng, hiệu quả cao để góp phần thực hiện thắng lợi những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra. 

Bàn về nhân cách của người lãnh đạo.

    Chuẩn mực đạo đức của người lãnh đạo là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, đó là điều chủ yếu nhất. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỉ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và nhân dân lao động lên trên, lên trước lơi ích riêng của cá nhân mình. Một lòng phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì nhân dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi công việc.

    Khi đã ở cương vị quản lý, người lãnh đạo tự quyết định mình phải làm gì, làm như thế nào, đồng thời chịu trách nhiệm về các quyết định của mình trước tập thể, trước cấp trên. Người lãnh đạo giữ vị trí trung tâm của tập thể lao động, mang sức mạnh quyền lực - sức mạnh được Nhà nước đảm bảo tác động trực tiếp với đối tượng quản lý của mình. Mặt khác, người lãnh đạo là cầu nối giữa cơ quan quản lý cấp trên và tập thể lao động; mọi chỉ thị, nghị quyết của Nhà nước ban hành thông qua người lãnh đạo để đến với tập thể và chịu trách nhiệm trước cấp trên về trạng thái hoạt động, kết quả hoạt động, cũng như các mặt về đời sống của tập thể do mình quản lý...

    Để thực hiện tốt vai trò, chức năng trên và để khẳng định tốt vị trí của mình, người lãnh đạo cần phải có những phẩm chất và năng lực cần thiết, những nét đặc trưng về nhân cách của người cán bộ lãnh đạo. Nhân cách nhà lãnh đạo chứa đựng những phẩm chất tốt đẹp của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam, có những trình độ và năng lực cần thiết thực hiện các nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho, là lòng trung thành với lý  tưởng XHCN,  với đường lối, quan điểm của Đảng ta, niềm tin và thắng lợi cuối cùng của cách mạng, có lập trường kiên định của giai cấp công nhân. Trong sáng về đạo đức, sự tận tâm với công việc, sự quan tâm  chăm sóc mọi người lao động, tinh thần phê và tự phê nghiêm túc, tinh thần tập thể, tính trung thực, công bằng, giản dị, khiêm tốn... có năng lực tổ chức, năng lực chuyên môn ...

    Đạo đức người lãnh đạo là phải biết cách xử thế giữa người lãnh đạo và người bị lãnh đạo trong quá trình quản lý, nhằm xây dựng được những quan hệ tốt đẹp với nhau, trên cơ sở đó mà bảo đảm thực hiện công việc chung đạt kết quả cao. Chẳng hạn, trong công tác đòi hỏi người lãnh đạo, quản lý  phải có tính khách quan công bằng đối với mọi cán bộ, công nhân viên dưới quyền, không được "yêu là tốt, ghét là xấu"; không thiên vị, không định kiến. Người lãnh đạo phải biết nghe lời nói phải, nghe những ý kiến bị coi là trái với ý kiến của mình, để xử lý, chọn lọc những thông tin đúng phục vụ cho công tác lãnh đạo .

      Người lãnh đạo phải có tư chất đúng mực, tự chủ, thể hiện: phải là người biết tự kiềm chế sự bột phát tình cảm của bản thân, nếu không biết làm chủ được tâm trạng của mình thì không thể làm lãnh đạo được. Dù tâm trạng riêng như thế nào chăng nữa thì người lãnh đạo khi đến cơ quan làm việc vẫn phải luôn vui vẻ với mọi người, bình tĩnh để giải quyết công việc được tốt nhất. Người lãnh đạo biết lắng nghe ý kiếm của người khác, biết phát biểu đúng nơi đúng chỗ, biết im lặng và biết tránh những kích động không cần thiết. Mọi hành vi và lời nói của người lãnh đạo đều phải có suy nghĩ, có sự kiểm soát.
     Trong ứng xử hàng ngày phải luôn tỏ ra hồn nhiên, khiêm tốn, biết tôn trọng mọi người. Quan hệ với mọi người chân thật, đúng mức; trên không nịnh hót, dưới không quyền uy; tránh tình trạng nịnh trên, nạt dưới. Người lãnh đạo cần sống giản dị, chân thật, có lối sống phù hợp với thực tại khách quan, với truyền thống dân tộc, không xa hoa phù phiếm, phô trương hình thức, dối trá, lừa lọc, độc ác.
     Đạo đức trong công tác còn đòi hỏi người lãnh đạo làm việc tận tâm, có sáng kiến, công tác đạt hiệu quả cao, phải thực hiện "lời nói đi đôi với việc làm",  luôn lấy chữ tâm làm đầu; làm việc phải có lề lối, có quy tắc, có chương trình, kế hoạch và tổ chức thực hiện phải theo chương trình, kế hoạch đó. Người cán bộ phải giám nghĩ, dám làm và giám chịu trách nhiệm trước những công việc của mình.
          Người lãnh đạo cần phải nhạy cảm với tình hình để luôn đi đầu, đón trước sự phát triển của sự việc. Chẳng hạn, người lãnh đạo ở các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể trong tình hình hiện nay cần nhanh chóng nắm bắt tình hình chính trị, xã hội để kịp thời động viên giáo dục tư tưởng chính trị cho nhân viên luôn đề cao cảnh giác trước những âm mưu của các thế lực thù địch. Cũng như đề ra những biện pháp chủ động, kịp thời trong việc bảo vệ an ninh, bí mật, tài sản của nhà nước.
   Trong thời đại ngày nay, dù ở trong cương vị nào, tài năng và đức độ vẫn là những phẩm chất cần thiết cho kết quả của công tác quản lý. Vì vậy mỗi cán bộ lãnh đạo cần luôn luôn tự hoàn thiện bản thân, tự học tập, trau dồi kiến thức thông qua sách vở và thực tiễn để tự nâng cao trình độ, năng lực quản lý của bản thân, đáp ứng nhu cầu công tác lãnh đạo và quản lý