Kết cục của tên phản động Bùi Tín

     Tháo bỏ quân hàm Đại tá, chạy theo ảo tưởng, địa vị, danh lợi của Việt Tân, của cái gọi là phục hưng Việt Nam Cộng hoà. Sau 17 năm, không có bản lĩnh , không có niềm tin, Bùi Tín – Nguyên Phó tổng biên tập Báo Nhân dân sinh năm 1927 tại Huế, trước khi lầm đường lạc lối từng được mệnh danh là người chiến sĩ, sĩ quan, nhà báo lão thành cách mạng, kiên trung với những bài viết khiến hàng triệu người nể phục.
     Vào tháng 9 năm 1990 sang Pháp dự hội hàng năm của báo “L’Humanité” và quyết định không trở lại với cơ quan, đồng nghiệp. Ông ta khẳng định “Rồi Việt Nam cũng sẽ sụp đổ như các nước ở Đông Âu thời ấy” và ông sẽ được bố trí vị trí xứng đáng trong bộ máy nhà nước Việt nam cộng hòa (theo như lời dụ dỗ) và rồi ông ta quyết định ở lại Pháp phản bội Nhân dân, Tổ quốc.
     Để rồi giờ đây ngồi tên phản quốc ấy bị đối xử thậm tệ của kẻ “hết giá trị lợi dụng”, Ông ta đã phải nói rằng “tôi không ân hận về những gì đang xảy đến với tôi đó là cái giá tôi phải trả nhưng nổi đau, thấm thía nhất là đồng tiền và danh vọng nó bạc như vôi”, là sự “ghẻ lạnh”, “hắt hủi” của những người mà ông từng coi là “cùng chiến tuyến”, “cùng phản phản bội Tổ quốc”… Ở cái tuổi 91, gần đất, xa trời ông ta phải bị trừng phạt, trả giá của cái mà ông ta cho là "phục hưng", "báo quốc". Tại Paris, thân già lủi thủi, cô đơn không một người nượng tựa, thăm hỏi,  ông ta phải đau đớn khi những kẻ từng tâng bốc, "đồng minh" của ông ta quay lưng với chính ông vì ông ta không còn giá trị lợi dụng… 
    Hỡi những tên phản động, bán nước tay cầm Đôla, miệng hô hào, chửi Đảng, nói xấu chế độ, đả kích, bôi nhọ lãnh tụ, “đấu tranh cho dân chủ”, “nhân quyền”, “tự do”, “tôn giáo” theo ý phản động…..ơi, hãy đọc, ngẫm nghĩ, đừng bỏ cả đời mình đi theo tội lỗi, để rồi cuối đời cô độc, ân hận, oán thân mình như tên phản động bán nước Bùi Tín. Dừng lại đi, nếu máu các ngươi còn là máu của người dân Việt Nam.

KẺ BẤT CẦN ĐỜI KHEN NHỮNG TÊN BẤT HIẾU, BẤT NGHĨA, BẤT TRUNG, BẤT NHÂN



KẺ BẤT CẦN ĐỜI KHEN NHỮNG TÊN BẤT HIẾU, BẤT NGHĨA,

BẤT TRUNG, BẤT NHÂN

Bùi Tín - kẻ mà hiện nay khi lên mạng xã hội ai cũng biết là kẻ đã quay lưng, chà đạp lên những gánh nặng đẻ đau của gia đình, những cưu mang của làng xóm, những điều tốt đẹp mà quê hương để chạy theo từng đồng “đô la” mà các tổ chức phản động ném cho để cắn càn, để nói xấu quê hương, làng xóm, đồng bào. Khi tòa án nhân dân Hà nội ngày 31/1/2018 xét xử Vũ Quang Thuận, Nguyễn Văn Điển và Trần Hoàng Phúc về tội “xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín, danh dự của lãnh đạo đảng trên mạng internet”, với hình phạt thích đáng, thì Bùi Tín lại khen rằng đây là “những chàng trai dân chủ yêu nước, dũng cảm”.
Thử hỏi, lịch sử dân tộc Việt Nam hơn 4000 năm văn hiến có ai lại khen những kẻ BẤT HIẾU, BẤT NGHĨA, BẤT TRUNG, BẤT NHÂN là yêu nước, dũng cảm. Đơn cử Trần Hoàng Phúc một trong ba tên bị xét xử. Y sinh ngày 30/4/1994; trú tại 154/45 Phạm Văn Hai, phường 3, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, hiện nay đang ở tại ngõ 674, Hoàng Hoa Thám, phường Bưởi, quận Tây Hồ, Thành phố Hà Nội. Được cha mẹ nuôi nấng, dưỡng dục vậy mà không lo báo đáp công sinh thành, có những việc làm, hành động sai trái, mê muội đến mức phải vào tù, tu chỉnh. Để cha mẹ đau lòng đó là BẤT HIẾU; anh em họ hàng, bạn bè cùng trang lứa, bà con láng giềng vừa lên án song lại vừa thương cảm cho Hoàng phúc nên những hành động của Phúc là BẤT NGHĨA; được sinh ra trong lòng Tổ quốc mà không trả ơn, không giúp ích trái lại còn chống phá điên cuồng là BẤT TRUNG; được gia đình, xã hội nuôi nấng, giúp đỡ không làm việc tốt lại nối giáo cho giặc chống lại đồng bào nên cũng gọi là BẤT NHÂN... Riêng với tội: Bất hiếu, bất nghĩa, bất trung, bất nhân,  thì có đáng bị lên án, bị phạt về lương tâm không đã??? họa chăng chỉ có kẻ cũng phường như vậy mới lên tiếng ngợi khen...!
Kết án bị cáo Vũ Quang Thuận 8 năm tù giam, Nguyễn Văn Điển bị 6 năm rưỡi và Trần Hoàng Phúc 6 năm tù giam là hồi chuông cảnh tỉnh cho những tên còn đang còn mê muội trên con đường được coi là “dân chủ yêu nước, dũng cảm” của các tổ chức phản động, lưu vong./.


NGUYỄN NGỌC GIÀ KẺ PHẢN ĐỘNG VÔ HỌC, VÔ LIÊM SỈ


     Chiến tranh đã lùi xa nhưng những người con Đất Việt, không ai có thể quên quá khứ đau thương nhưng hết sức hào hùng của dân tộc. Không ai sống bằng quá khứ nhưng không được quên đi quá khứ, không thể quên những năm tháng đau thương của dân tộc đặc biệt là sự đau thương mất mát vô bờ bến mà nhân dân miền Nam dưới chế độ Ngụy quyền Sài Gòn hay còn gọi là Việt Nam Cộng hòa, tay sai của đế quốc Mỹ. Việt Nam Cộng hòa đã dìm nhân dân miềm Nam Việt Nam trong bể máu với luật 10/59 lê máy chém đi khắp miền Nam Việt Nam, với phương châm “giết nhầm còn hơn bỏ sót”. Chúng đã giết hại hàng ngàn chiến sĩ cách mạng và cả hàng ngàn dân thường Việt Nam vô tội. Mà vụ thảm sát ở Mỹ Lai (Quảng Ngãi) ngày 16/3/1968, khiến hơn 500 người, phần lớn là phụ nữ và trẻ em, thiệt mạng, là bằng chứng cho sự tàn bạo, dã man của chế độ Việt Nam cộng hòa. Bên cạnh đó trong các nhà tù Côn Đảo, Phú Quốc, Kon Tum… chúng dùng các hình thức tra tấn hết sức man rợ hơn cả thời trung cổ giết hại hàng vạn cán bộ cách mạng yêu nước Việt Nam, tội ác đó thật là kinh tởm. Đau xót căm phẫn, nhân dân 2 miền Nam - Bắc Việt Nam đã đứng lên với tinh thần ý chí quật cường đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào bằng chiến thắng 30/4 /1975 đưa non sông Việt Nam thu về một mối cả nước độc lập dân tộc cùng đi lên CNXH. Chiến thắng vĩ đại đó đã phải đổi bằng xương máu của hàng triệu đồng bào, chiến sỹ Việt Nam. Vậy mà tại sao lại có kẻ ngu xuẩn như Nguyễn Ngọc Già lại có thể phun ra những lời giơ bẩn, vô liêm sỹ rằng “Tôi biết ơn Việt Nam Cộng Hòa”. Thử hỏi, Nguyễn Ngọc Già đã chịu cái ơn gì của Việt Nam Cộng Hòa ngoài cái ơn cha chú, cậu gì, anh chị đều bị Việt Nam Cộng Hòa bỏ tù vì dám “ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản”. Phải chăng, cái ơn đó lớn lắm nên Nguyễn Ngọc Già phải quyết chí đền ơn cho những kẻ tay sai bán nước. Thử hỏi nguyên cán bộ của Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh rằng ông có ăn học đàng hoàng, có chức sắc vậy mà tại sao ông có thể nói lên những lời như vậy? Động lực nào ông nói ra những lời như vậy hay chỉ vì mấy đồng đô la được bọn phản động “bố thí”?. Ông có thấy hổ thẹn với chính bản thân, họ hàng và tổ tông nhà ông không? hay đồng đô la đã làm ông thành kẻ lưu manh hóa, vô liêm sỉ. Ông sống ở Việt Nam mà đi cảm ơn những kẻ bán nước, giết hại nhân dân Việt Nam, không biết ông có não không, hay chỉ là thứ bã đậu không hơn không kém? Ông đúng là kẻ phản động vô học, vô liêm sỉ.

Tại sao các thế lực thù địch lại lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước ta

     Cùng với vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, các thế lực thù địch đang lợi dụng vấn đề “tôn giáo” để tạo sự chống phá đa diện nhằm vào Đảng và chế độ ta. Mục đích của việc lợi dụng vấn đề này là để kích động, gây rối, phá hoại, gây mất ổn định chính trị-xã hội, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
  Việt Nam là nước đa tôn giáo. Mặc dù nguồn gốc, đặc điểm và thời điểm hình thành, phát triển của mỗi tôn giáo có khác nhau, nhưng nhìn chung các tôn giáo luôn có tinh thần bao dung, đoàn kết, gắn bó trong đại gia đình các dân tộc, tôn giáo Việt Nam. Cộng đồng các tôn giáo ở Việt Nam luôn đồng hành cùng dân tộc, hòa chung cùng niềm vui và nỗi đau của dân tộc trong những thời khắc lịch sử, góp phần phát triển và làm rạng rỡ nền văn hóa Việt Nam phong phú, đa dạng và đặc sắc.
   Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các tôn giáo đã đóng góp xứng đáng vào thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và tiếp tục phát huy trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhiều chức sắc tôn giáo, tăng ni, phật tử đã làm tốt việc đạo, việc đời, hướng dẫn tín đồ chấp hành đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, sống “tốt đời, đẹp đạo”, “kính Chúa yêu nước” được ghi nhận và tôn vinh.
     Thế nhưng với bản chất ngoan cố, hiếu chiến, thù địch và dã tâm xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, các thế lực thù địch, phản động đang điên cuồng chống phá Đảng, Nhà nước ta thông qua chiến lược “Diễn biến hòa bình” với mọi thủ đoạn tinh vi, thâm độc. Trong đó, lợi dụng vấn đề “tôn giáo” được chúng sử dụng như một vũ khí đặc biệt quan trọng để xuyên tạc, vu khống, kích động, phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm mất ổn định chính trị-xã hội, tiến tới chuyển hóa chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
    Phương thức hoạt động chủ yếu của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị là kích động tâm lý mặc cảm, tư tưởng chống đối, hậu thuẫn về vật chất, tinh thần đối với những phần tử bất mãn, cực đoan, quá khích trong các tôn giáo; thúc đẩy thành lập các hội đoàn trái pháp luật trong xứ đạo để thách thức, chống phá chính quyền.
    Cùng với đó, chúng tiến hành các hoạt động chiến tranh tâm lý, phá hoại tư tưởng, gây hoang mang dư luận về sự đối lập hệ tư tưởng giữa “hữu thần” với “vô thần”, giữa thế giới quan tôn giáo với thế giới quan cộng sản hoặc vu cáo, xuyên tạc “Cộng sản diệt đạo”, “Nhà nước đàn áp tôn giáo”; từ đó, kích động mâu thuẫn, tập hợp lực lượng, tổ chức biểu tình, gây rối trật tự, mất ổn định an ninh chính trị, an toàn xã hội trên địa bàn...
   Đáng chú ý, thời gian qua, lợi dụng những hạn chế, yếu kém trong quản lý, điều hành xã hội của chính quyền các cấp về vấn đề đầu tư, ô nhiễm môi trường, giải phóng mặt bằng, đền bù giải tỏa, … các phần tử cực đoan trong tôn giáo nói chung, công giáo nói riêng, ra sức “bới lông, tìm vết”, tổ chức các hoạt động vi phạm pháp luật Nhà nước, trái với giáo lý tôn giáo.
    Lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta và được sự tiếp tay của các thế lực phản động bên ngoài, những kẻ cực đoan đội lốt tôn giáo kêu gọi, kích động giáo dân tụ tập, biểu tình, tuần hành, gây rối, tấn công người thi hành công vụ, đập phá phương tiện, cản trở hoạt động giao thông, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Với mưu đồ chống phá đến cùng, những kẻ cực đoan đội lốt tôn giáo đẩy mạnh tuyên truyền, kích động “con chiên ngoan đạo” thực hiện các hành vi chống phá Đảng, Nhà nước ta bằng các luận điệu xuyên tạc, thù địch, sai sự thật....
   Cùng với đó, các thành viên của cái gọi là “Đảng Việt Tân”, trú tại Mỹ thông qua các trang mạng tuyên truyền, xuyên tạc. Thực chất đó là những luận điệu lạc lõng, hại dân, hại nước, trò “lập lờ đánh lận con đen”, “đổ thêm dầu vào lửa” hòng đánh lừa dư luận, can thiệp vào tình hình tôn giáo ở Việt Nam. Sự chống phá quyết liệt của những kẻ cực đoan trong tôn giáo cùng sự “hà hơi, tiếp sức” của các thế lực thù địch bên ngoài nguy hiểm ở chỗ làm cho một số người “nhẹ dạ cả tin” trong bà con giáo dân lầm tưởng rằng việc làm đó là đi theo “tiếng gọi của Chúa” mang phúc lộc cho các con chiên ngoan đạo để rồi nghe lời xúi giục kích động của họ tham gia tụ tập, biểu tình, gây rối vi phạm pháp luật. Chúng ta hãy cảnh giác, chủ động và tích cực đấu tranh lật tẩy những mưu đồ đen tối, những kẻ đeo mặt nạ trá hình đội lốt tôn giáo trước ánh sáng công lý và pháp luật.


Tại sao những kẻ phản động lại điên cuồng chống phá cách mạng Việt Nam

    "Phản động", "bọn phản động" là những cụm từ có lẽ không ai là chưa từng nghe qua, nhưng chắc chưa nhiều người nhắc tới nguyên nhân vì sao lại sinh ra phản động. Bài viết sau tôi xin trình bày những quan điểm của cá nhân về những nguyên nhân vì sao lại sinh ra những kẻ phản động. Theo thống kê của cơ quan chức năng thì hiện nay đã và đang có gần 400 tổ chức phản động trong và ngoài nước chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chúng ra sức chống phá một cách điên cuồng Đảng và Nhà nước Việt Nam là vì:
      Một là, những kẻ phản động, chống đối là những kẻ bất đồng về hệ tư tưởng, quan điểm chính trị. Đảng Cộng sản Việt Nam đã trải qua hơn 86 năm trưởng thành và phát triển, lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, được nhân dân yêu quý, trìu mến gọi với cái tên thân thương “Đảng ta”. Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn kiên định lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động; độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội là hai nhiệm vụ chiến lược trong mọi thời kỳ của cách mạng Việt Nam. Chính vì sự kiên định với nền tảng tư tưởng này và mục tiêu này mà Đảng ta đã đề ra được các chủ trương, đường lối đúng đắn, khoa học, phù hợp với tình hình đất nước, đưa đất nước ta ngày càng phát triển. Nhưng cũng có những kẻ không nhận thấy được sự đúng đắn này, ngược lại chúng còn ra sức chống phá, xuyên tạc chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương, đường lối của Đảng. Chúng luôn cho rằng, chủ nghĩa Mác-Lênin đã lỗi thời không còn phù hợp với tình hình thực tiễn và chủ nghĩa xã hội là một cái gì rất ảo, chỉ có dưới chế độ tư bản chủ nghĩa thì cuộc sống của con người mới tiến bộ và sống theo đúng nghĩa. Chính sự đối lập này đã dẫn đến những mầm mống sinh ra phản động.
     Hai là, do những lợi ích vật chất từ việc làm phản động. Không ít những kẻ phản động cho rằng đây là một cái “nghề”. Điều này nghe có vẻ vô lý nhưng lại vô cùng có lý. Trên thực tế, có rất nhiều các tổ chức phản động, chống đối được thành lập ra để nhằm mục đích “câu” tiền từ các tổ chức và các thế lực thù địch bên ngoài. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ được các tổ chức phản động giao cho (ví dụ kích động biểu tình, phát tán truyền đơn có nội dung chống Đảng và Nhà nước, viết bài đả kích, xuyên tạc Đảng và Nhà nước…), một người có thể nhận được số tiền rất hậu hĩnh mà lại rất đơn giản. Cái giá vài trăm USD cho một bài viết có nội dung chống đối hay vài nghìn USD cho một hoạt động kích động biểu tình, phá hoại là một điều rất khó cưỡng lại và đã có rất nhiều người thiếu hiểu biết hoặc cố ý chọn cái “nghề” này để kiếm tiền. Chính lòng hám lợi và tư tưởng nhen nhóm chống đối đã đẩy những con người này quay lại chống phá nhà nước, đi ngược lại với lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc.
    Ba là, do sự lôi kéo, dụ dỗ, đe dọa, kích động của các thế lực thù địch. Các thế lực phản động không ngừng mở rộng mạng lưới, chúng dùng mọi phương thức, thủ đoạn để lôi kéo người tham gia mạng lưới phản động của chúng. Có thể là chúng lợi dụng những mâu thuẫn dù là rất nhỏ giữa nhân dân và chính quyền rồi thổi phồng lên, tiêm nhiễm những tư tưởng chống đối, kích động quần chúng nhân dân tham gia mạng lưới của bọn chúng với nhiều danh nghĩa rất chính đáng như giúp đòi lại công bằng…Cũng có thể chúng nắm được những bí mật đời tư hay những tài liệu phạm pháp của một người rồi từ đó khống chế, ép buộc phải tham gia tổ chức phản động của bọn chúng, hay bằng rất nhiều phương thức, thủ đoạn khác… Đây là một con đường hình thành các phần tử phản động tương đối phổ biến hiện nay.
   Bốn là, do ảo tưởng, tham vọng về quyền lực chính trị. Không ít những người có “máu” chính trị, có tham vọng nhưng lại không chịu phấn đấu bằng con đường chính đáng mà lại chọn cách “đi tắt đón đầu”. Bằng cách đầu quân cho các tổ chức phản động, một số người có ảo tưởng sẽ được “đổi đời” nhanh hơn. Các tổ chức phản động cũng thành lập hệ thống các cơ quan, như đảng Việt Tân, chúng cũng có Chủ tịch đảng, các phó chủ tịch…giống với các chính đảng khác.
   Năm là, do những sai sót nhất định trong việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước của các cán bộ, đảng viên ở cơ sở và những tồn tại bất, cập trong nội bộ Đảng ta. Thực tiễn đã chỉ ra, Đảng ta luôn thể hiện sự đúng đắn trong việc hoạch định đường lối phát triển đất nước, nhưng khâu tổ chức thực hiện ở địa phương không phải ở đâu cũng đạt được yêu cầu. Chính những sai sót, khuyết điểm của cán bộ cấp cơ sở đã tạo ra những mâu thuẫn giữa quần chúng nhân dân với chính quyền, gây ảnh hưởng xấu tới uy tín của Đảng. Chính điều này đã tạo điều kiện cho các thế lực phản động lôi kéo, kích động quần chúng nhân dân chống lại Đảng. Trong Nghị quyết Trung Ương 4 khóa XII, Đảng ta đã thẳng thắn chỉ ra những khuyết điểm, những vấn đề đang tồn tại trong nội bộ Đảng cần được giải quyết. Chính sự thẳng thắn nhìn nhận và chỉ ra những vấn đề hết sức cấp bách, đồng thời có những chủ trương, giải pháp để khắc phục đã củng cố thêm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, khẳng định vai trò lãnh đạo số một của Đảng đối với cách mạng Việt Nam.

Gạc Ma 1988: Trường Sa, bài học lịch sử bằng máu

Sự kiện thảm sát Gạc Ma đã diễn ra 30 năm trước, nhưng bài học kinh nghiệm luôn cần được đặt ra mổ xẻ để bánh xe lịch sử không lặp lại. 
Thảm sát Gạc Ma
Ngày 14/3/1988 là một ngày đặc biệt đối với người dân Việt Nam. Đó là ngày Trung Quốc xua quân tấn công các chiến sĩ công binh của Việt Nam tại khu vực Trường Sa. Máu đã loang trên mặt biển Đông. 64 chiến sĩ của chúng ta đã mãi mãi không trở về.
Nhiều bài viết gọi đây là cuộc “hải chiến Trường Sa”. Cách gọi này hoàn toàn không đúng với bản chất của sự kiện. Bởi vì, bên Trung Quốc đã dùng hải quân trang bị vũ khí tấn công, gồm cả pháo tầm xa, còn bên ta chỉ là các chiến sĩ công binh với vũ khí bộ binh phòng vệ. Bản chất của nó phải được gọi đúng tên là một cuộc thảm sát những người lính công binh Việt Nam do lực lượng hải quân Trung Quốc gây ra.
Trung Quốc còn tàn độc hơn khi không cho phép các tàu của lực lượng chữ thập đỏ ra cứu các nạn nhân, cho dù đây luôn là thông lệ quốc tế trong chiến tranh.
Sự kiện đã diễn ra 30 năm, niềm đau thương, mất mát tưởng chừng như lắng dịu. Tuy vậy, những bài học kinh nghiệm luôn cần được đặt ra, để làm sao cho bánh xe lịch sử không lặp lại lần nữa. 
Thời điểm để Trung Quốc ra tay
Khi tìm hiểu về tính cách dân tộc Trung Quốc, Nguyễn Trãi đã tổng kết người Trung Quốc là “hiếu đại, hỷ công, cùng binh, độc vũ”. Tính cách của người Trung Quốc còn được khái quát qua nhân vật Tào Tháo trong Tam quốc Diễn nghĩa: “thà ta phụ người, còn hơn để người phụ ta”. Khi hữu sự, người Trung Quốc thường sẵn sàng ra tay dùng vũ lực lạnh lùng, tàn nhẫn, và luôn tấn công trước đối phương để đoạt tiên cơ.
Cho đến năm 1987, Trung Quốc chưa hề có mặt trên bất cứ cấu trúc nào tại Trường Sa, và họ nhận thấy đây là một bất lợi. Vì thế, từ đầu năm 1988, Trung Quốc đã ráo riết cho quân lên chiếm một số cấu trúc địa lý thuộc Trường Sa, bao gồm: Chữ Thập, Châu Viên, Huy Gơ, Ga Ven.
Về phía Việt Nam, mặc dù tiềm lực còn hạn chế về mọi mặt nhưng chúng ta cũng quyết tâm cho các lực lượng công binh ra xây dựng một số cấu trúc tại Trường Sa, nhằm khẳng định và bảo vệ chủ quyền.
Không phải ngẫu nhiên mà Trung Quốc đã chọn thời điểm đầu năm 1988 để tấn công Gạc Ma.
Binh pháp Tôn Tử của Trung Quốc luôn nhấn mạnh vào “thời”, “thế” trong hoạt động chiến tranh. Thời điểm năm 1988, Việt Nam rơi vào “thế” vô cùng hiểm nghèo. Chật vật qua hai cuộc chiến tranh với hai đối thủ “hạng nặng” Pháp và Mỹ, Việt Nam vừa giành được thống nhất đất nước, vết thương chiến tranh chưa kịp lành, kinh tế chưa hồi phục thì ngay sau đó, quân Khmer đỏ tấn công biên giới Tây Nam. Khi Việt Nam đang phải truy đuổi quân Khmer đỏ thì Trung Quốc dàn quân tấn công Việt Nam trên 6 tỉnh biên giới phía Bắc.
Kinh tế đất nước chật vật, chạy ăn từng bữa, chiến tranh liên miên, đã khiến Việt Nam rơi vào thế khó. Thời điểm đó, trong hoạt động đối ngoại, Việt Nam gần như bị cô lập hoàn toàn. Mỹ vẫn đang cấm vận Việt Nam, Trung Quốc tấn công biên giới năm 1979 và liên tiếp những năm sau đó là thời điểm căng thẳng tột độ giữa hai nước.
Sau sự kiện Campuchia, ASEAN quay lưng ghẻ lạnh với Việt Nam. Chỗ dựa duy nhất của Việt Nam là Liên Xô và khối Đông Âu thì lúc này đang trong cơn rệu rã (năm 1989 bức tường Berlin sụp đổ và năm 1991, Liên Xô tan rã).
Khi Việt Nam rơi vào thế cùng chính là thời cơ của Trung Quốc. Dư luận quốc tế thì đang chú ý đến sự kiện Campuchia, tiềm lực Việt Nam thì kiệt quệ, đây chính là thời điểm tốt nhất để Trung Quốc ra tay chiếm Trường Sa mà không bị sự phản đối nào đáng kể.
Khi Trung Quốc tấn công Việt Nam ngày 14/3/1988, dư luận quốc tế thờ ơ, các nước ASEAN bàng quan cho rằng đây là chuyện riêng giữa Việt Nam và Trung Quốc, kể cả Malaysia và Philippines là những quốc gia trực tiếp có lợi ích tại Trường Sa.
Bài học lịch sử qua sự kiện Gạc Ma là khi thế và lực của Việt Nam suy kiệt, thì đó sẽ là “thời” của Trung Quốc, họ sẽ thẳng tay tấn công, xâm lấn, thâu tóm lãnh thổ. Trong bất kỳ bối cảnh nào, chính sách đối ngoại luôn hết sức quan trọng, nhất là đối với những nước nhỏ như Việt Nam. Nếu dư luận quốc tế lên tiếng thì Trung Quốc cũng khó mà trơ tráo và hung hăng đến thế. Thêm nữa, đừng mong chờ có “cao nhân” nào cứu giúp, tham chiến, khi chiến tranh xảy ra.
Trường Sa hôm nay
Sau khi chiếm được Gạc Ma sau cuộc thảm sát ngày 14/3/1988, năm 1995 Trung Quốc chiếm thêm bãi Vành Khăn từ tay Phillipines. Họ đã có tổng cộng bảy cấu trúc: Gạc Ma, Chữ Thập, Châu Viên, Huy Gơ, Ga Ven, Xu Bi và Vành Khăn.
Kể từ năm 2014 đến nay, lợi dụng thế giới đang tập trung vào sự kiện giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981, Trung Quốc đã âm thầm tiến hành bồi lấp các cấu trúc tại Trường Sa, tổng diện tích bồi lấp lên tới 800 ha. Đến nay, tất cả các cấu trúc này đều đã được xây dựng và trang bị các phương tiện quân sự hiện đại, đóng vai trò như các “chiến hạm nổi” tại khu vực biển này.
Cho đến nay, thực tế là không có một quốc gia nào có thể ngăn cản được việc Trung Quốc bồi lấp các cấu trúc tại Biển Đông, trong đó có Trường Sa. Và cùng với việc bồi lấp này, Trung Quốc đã biến bảy cấu trúc thành các căn cứ quân sự quan trọng để nắm quyền chi phối, kiểm soát khu vực Biển Đông bằng sức mạnh vũ lực. 
Bên kia Thái Bình Dương, đối thủ mạnh nhất và đáng gờm nhất của Trung Quốc là Hoa Kỳ. Việc nước này có một tổng thống đầy tai tiếng và điều hành đất nước theo cách “không giống ai” đã khiến cho Trung Quốc thay vì bị ngăn cản, lại trở nên ngày càng mạnh hơn cả về “thế và lực”.
Một vấn đề cần đặt ra là liệu trong tương lai gần, trước việc Trung Quốc càng ngày càng mạnh và “nhe nanh múa vuốt” như vậy, có thể lặp lại việc tấn công Trường Sa tại các cấu trúc mà Việt Nam đang kiểm soát?
Bối cảnh thế giới hiện nay cho thấy, Trung Quốc đang gặp thời. Dù không ưa Trung Quốc đi chăng nữa, cũng phải thừa nhận rằng, ảnh hưởng và thế lực của Trung Quốc càng ngày càng mạnh lên, trong khi ảnh hưởng của Hoa Kỳ - đối thủ duy nhất có đủ sức mạnh kiềm chế Trung Quốc dường như càng ngày càng đi xuống.
Tuy nhiên dù Trung Quốc đang có thời nhưng Việt Nam không rơi vào thế cùng như trước nữa. Về đối ngoại, Việt Nam đã thể hiện chính sách uyển chuyển. Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược cùng lúc với Trung Quốc và nhiều cường quốc trên thế giới. Quan hệ quân sự giữa Việt Nam và nhiều cường quốc đã liên tục phát triển. Tàu chiến Ấn Độ, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia… nhiều lần ghé thăm Việt Nam. Mới đây, hàng không mẫu hạm Carl Vinson của Hoa Kỳ ghé thăm cảng Đà Nẵng. Điều đó cho thấy quan hệ của Việt Nam với các quốc gia trên thế giới đang phát triển đáng kể, kể cả với các cựu thù như Hoa Kỳ.
Thế của Việt Nam đã thay đổi, lực của Việt Nam cũng thay đổi theo. Dù cho tiềm lực quân sự của Việt Nam không thể so sánh với Trung Quốc nhưng cũng không phải là không có khả năng bảo vệ và gây thiệt hại cho đối phương nếu bị đối phương gây hấn, tấn công. Việt Nam đã và đang đa dạng hóa nguồn vũ khí của mình, từ tên lửa của Nga, Ấn Độ cho đến tàu chiến của Nga, Pháp… Việt Nam cũng đang cân nhắc việc mua các vũ khí hiện đại từ Hoa Kỳ để tăng cường sức mạnh phòng vệ trên biển.
Dù hòa bình, hợp tác là xu thế của thế giới hiện nay, thế nhưng nguy cơ về xung đột giữa Việt Nam và Trung Quốc tại khu vực Trường Sa vẫn luôn hiện hữu. Sự kiện tàu thăm dò dầu khí của công ty Repsol phải rút khỏi lô 136-03 (dù công ty này đã được Việt Nam cấp phép hoạt động trên vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo các quy định của luật biển quốc tế) là một minh chứng cho thấy nguy cơ tiềm ẩn đó. Nếu không cảnh giác, tỉnh táo và chủ động, Việt Nam có thể sẽ bị cuốn vào một cuộc xung đột như vậy trong tương lai.
Vì vậy, để tránh lặp lại sự kiện Gạc Ma, một mặt Việt Nam cần tiếp tục phát triển chính sách đối ngoại đa phương, tích cực tham gia các diễn đàn quốc tế, để tạo thế đứng trên trường quốc tế. Mặt khác, Việt Nam cần tăng cường sức mạnh nội lực về kinh tế, quốc phòng. Mặc dù, chính sách quốc phòng của Việt Nam tập trung vào bảo vệ đất nước, nhưng nếu Việt Nam có sức mạnh quốc phòng đáng kể sẽ khiến đối phương phải cân nhắc khi tấn công vũ trang, tạo sức mạnh răn đe.
Trong sức mạnh quốc phòng ấy, thế trận lòng dân luôn là một phần quan trọng, có tính chất quyết định trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc, hiện tại cũng như lâu dài.

 (Theo Vietnamnet.vn)

Nhận diện âm mưu, thủ đoạn lợi dụng các vấn đề dân tộc để chống phá cách mạng Việt Nam

Thực hiện chiến lược 'Diễn biến hòa bình' đối với Việt Nam hiện nay, các thế lực thù địch, phản động đã và đang triệt để lợi dụng các vấn đề về dân tộc thiểu số (DTTS), 'chủng tộc', 'sắc tộc', 'dân tộc bản địa' để chống phá Việt Nam trên mặt trận dân chủ, nhân quyền, gia tăng hoạt động với nhiều thủ đoạn, phương thức khác nhau, tập trung tại các địa bàn chiến lược Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ và tại địa bàn ngoại biên. Chúng coi đây là mũi nhọn, ngòi nổ tiến công để phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc, tiến tới mục tiêu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và lật đổ chế độ XHCN ở Việt Nam.
Hoạt động chính của các thế lực thù địch, phản động là tập trung tuyên truyền xuyên tạc, đả kích chính sách, pháp luật về dân tộc của Nhà nước ta; xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, "chèn ép", "phân biệt đối xử", đàn áp người DTTS. Chúng còn triệt để lợi dụng, khai thác những vấn đề phức tạp do lịch sử để lại ở các vùng dân tộc để kích động xuyên tạc sự thực, vu cáo Đảng, Nhà nước ta ngược đãi, phân biệt, đối xử bất bình đẳng với DTTS.
Lợi dụng khó khăn về đời sống, chênh lệch giàu nghèo giữa người DTTS với người Kinh; khuyết điểm trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo ở vùng đồng bào DTTS, chúng ra sức tuyên truyền xuyên tạc, vu cáo Đảng, Nhà nước ta. Các tổ chức hội nhóm người DTTS lợi dụng các diễn đàn, hội nghị, viết bài vu cáo, xuyên tạc vùng đất của người DTTS và việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, ý đồ là quốc tế hóa vấn đề như "Vương quốc Khmer Krôm", "Vương quốc Chăm", "Nhà nước Mông", "Nhà nước Tin lành Đề-ga" hướng tới ly khai, tự trị, độc lập.
Gần đây, các thế lực thù địch và phần tử dân tộc cực đoan, nhất là một bộ phận trong cộng đồng DTTS Việt Nam sống lưu vong ở nước ngoài đang ra sức lợi dụng bản Tuyên ngôn về quyền của người bản địa của Liên hợp quốc 2007 mà Nhà nước ta đã tham gia, ráo riết kích động đồng bào các DTTS trong nước, đứng lên đòi quyền dân tộc tự quyết, lập "Nhà nước Khmer Krôm"; "Nhà nước Đề-ga", "Vương quốc Chămpa", "Vương quốc Mông" nhằm gây mất ổn định chính trị-xã hội, chia rẽ dân tộc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, từng bước tiến tới phá vỡ sự toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước.
Chúng cố ý đánh đồng "quyền dân tộc tự quyết" là quyền của quốc gia, dân tộc- với tư cách là chủ thể của luật quốc tế với "quyền của người bản địa" là những quyền của các DTTS hoặc nhóm sắc tộc, thường là những quyền về văn hóa-xã hội của một bộ phận dân cư trong lòng một quốc gia-dân tộc. Thực chất, "quyền tự quyết" của dân tộc, sắc tộc trong một quốc gia không được phép vượt ra ngoài khuôn khổ "quyền dân tộc tự quyết", không được xâm phạm quyền của cả quốc gia-dân tộc.
Có thể khẳng định, các thế lực thù địch, phản động và tôn giáo cực đoan lưu vong ở nước ngoài đang thực hiện âm mưu lợi dụng "quyền dân tộc tự quyết" của người bản địa để hình thành các vùng đất tự trị trong lòng đất nước Việt Nam. Đây là ý đồ thâm độc, nguy hiểm mà chúng đã, đang rất quyết tâm thực hiện từ nhiều năm nay, nhất là với sự ra đời Tuyên ngôn về quyền của người bản địa của Liên hợp quốc 2007, đã tạo cớ để xuyên tạc, lợi dụng.
Trước tình hình trên, để góp phần đảm bảo an ninh chính trị vùng đồng bào DTTS, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch, phản động và những phần tử cơ hội chính trị cần phải có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị trong việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật về dân tộc của Nhà nước nhằm không ngừng phát triển kinh tế-xã hội, văn hóa, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, đảm bảo quyền bình đẳng của đồng bào DTTS.
Đồng thời, xây dựng vững chắc khối đại đoàn kết dân tộc, củng cố thế trận an ninh nhân dân và phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc. Lực lượng nòng cốt phải chủ động các biện pháp nghiệp vụ trong công tác phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn, vô hiệu hóa mọi âm mưu, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng vấn đề DTTS chống phá ta về dân chủ, nhân quyền.


ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI BẢO VỆ CƯƠNG LĨNH, ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG

Gần đây, các thế lực thù địch đã và đang liên tục chống phá cách mạng nước ta hết sức tinh vi và quyết liệt. Mũi nhọn quan trọng và thâm độc nhất là tiến công vào nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đồng thời phủ định chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chế độ XHCN và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam… Cùng với đó, các phần tử cơ hội về chính trị và chống đối đã thành lập các tổ chức, nhóm, hội bí mật phát tán các tài liệu bất hợp pháp, tung tin đồn nhảm, xuyên tạc tình hình, truyền bá những quan điểm sai trái chống đối Đảng, chính quyền các cấp. Một số người ở nước ngoài đưa ra luận điệu bịa đặt, chống đối Đảng, Nhà nước Việt Nam, xuyên tạc sự thật, nói xấu lãnh tụ, bôi nhọ danh nhân và anh hùng dân tộc. Họ đòi Đảng từ bỏ quyền lãnh đạo, đòi bỏ Điều 4 Hiến pháp của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; bác bỏ con đường XHCN, đòi đa nguyên, đa đảng... 
Nhân dân Việt Nam đã đi qua hai cuộc chiến tranh để bảo vệ và giải phóng, thống nhất đất nước mình nên càng thấu hiểu thế nào là tự do độc lập, thế nào là toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước ở Việt Nam do Đảng Cộng sản khởi xướng và lãnh đạo hơn 40 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Vị thế của đất nước Việt Nam ngày càng được nâng cao, đời sống người dân Việt Nam ngày càng được cải thiện. Đảng ta, nhân dân ta luôn mong muốn một không khí hòa bình để xây dựng một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, nhưng các thế lực thù địch không để chúng ta yên. Vì vậy, việc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, vạch trần các âm mưu, thủ đoạn các thế lực thù địch là một nhiệm vụ tất yếu, cần phải làm thật tốt. Để thực hiện được điều đó, cần nhận rõ các dạng quan điểm sai trái, những luận điệu thù địch để có những đối sách phù hợp. Tập trung xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, làm tốt công tác tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và toàn dân bằng cách tuyên truyền, tổ chức, giáo dục hướng tới sự thống nhất tư tưởng và thống nhất hành động trong toàn xã hội. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực - một thứ giặc nội xâm nguy hại để giữ vững niềm tin của nhân dân, bảo vệ pháp luật, bảo vệ Đảng, chế độ XHCN. Trong 88 năm qua, Đảng ta luôn coi trọng công tác đấu tranh chống những quan điểm sai trái, những luận điệu thù địch chống phá cách mạng. Đây là nhiệm vụ đặc biệt, cần có sự phối hợp đồng bộ, chỉ đạo chặt chẽ, huy động năng lực và trí tuệ của đội ngũ cán bộ trong toàn hệ thống chính trị nhằm giải quyết những vấn đề nảy sinh trong nhận thức tình cảm, tư tưởng của nhân dân. Đồng thời, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch cũng chính là sự khẳng định lập trường của Đảng và Nhà nước ta trước những biến động phức tạp trên thế giới và trong nước, từ đó củng cố nhận thức chính trị, giữ vững thế trận lòng dân, đưa sự nghiệp cách mạng tới thắng lợi hoàn toàn.



TRẬN CHIẾN GẠC MA NĂM 1988, MỘT THIÊN SỬ ANH HÙNG.

Mỗi năm, cứ đến ngày 14/3, cả nước lại tổ chức tưởng niệm các anh, những người lính đã hy sinh xương máu của mình trong trận hải chiến bảo vệ đảo Gạc Ma năm 1988.
Theo các tài liệu, trận chiến Trường Sa năm 1988 được ghi lại khá đầy đủ, chi tiết.
Tại khu vực đá Gạc Ma, sáng ngày 14 tháng 3, từ tàu HQ-604 đang thả neo tại Gạc Ma làm nhiệm vụ xây dựng, Trần Đức Thông, Lữ đoàn phó Lữ đoàn 146, phát hiện thấy bốn chiếc tàu lớn của Trung Quốc đang tiến lại gần. Tổ 3 người gồm thiếu uý Trần Văn Phương và hai chiến sĩ Nguyễn Văn Tư, Nguyễn Văn Lanh được cử lên đá bảo vệ lá cờ Việt Nam đang tung bay trên đá Gạc Ma.
Phía Trung Quốc cử hai xuồng chở tám lính có vũ khí lao thẳng về phía đá. Chỉ huy Trần Đức Thông ra lệnh cho các thủy thủ từ tàu 604 tiến về bảo vệ để hình thành tuyến phòng thủ, không cho đối phương tiến lên.
Khoảng 6h sáng, Hải quân Trung Quốc thả ba thuyền nhôm và bốn mươi quân đổ bộ lên đá giật cờ Việt Nam. Hạ sĩ Nguyễn Văn Lanh bị lê đâm và bắn bị thương. Thiếu úy Trần Văn Phương bị bắn tử thương.
Lúc 7 giờ 30 phút, Trung Quốc dùng hai chiến hạm bắn pháo 100 mm vào tàu 604, làm tàu bị hỏng nặng. Hải quân Trung Quốc cho quân xông về phía tàu Việt Nam. Thuyền trưởng Vũ Phi Trừ chỉ huy đánh trả quyết liệt, buộc đối phương phải nhảy xuống biển bơi trở về tàu.
Hải quân Việt Nam vừa chiến đấu, vừa tổ chức băng bó, cứu chữa thương binh và hỗ trợ các chiến sĩ bảo vệ cờ. Trung Quốc tiếp tục nã pháo, tàu 604 của Việt Nam bị thủng nhiều lỗ và chìm dần xuống biển. Vũ Phi Trừ - thuyền trưởng, Trần Đức Thông - lữ đoàn phó Lữ đoàn 146, cùng một số thủy thủ trên tàu đã hy sinh cùng tàu 604 ở khu vực đá Gạc Ma.
Tại đá Cô Lin, 6h, tàu HQ-505 của Việt Nam đã cắm hai lá cờ trên đá. Khi thấy tàu 604 của Việt Nam bị chìm, thuyền trưởng tàu HQ-505, Vũ Huy Lễ ra lệnh nhổ neo cho tàu ủi bãi. Phát hiện tàu 505 đang lên bãi, 2 tàu của Trung Quốc quay sang tiến công tàu 505. Khi tàu HQ-505 trườn lên được hai phần ba thân tàu lên đá thì bốc cháy.
8h15, thủy thủ tàu 505 vừa triển khai lực lượng dập lửa cứu tàu, bảo vệ đá, và đưa xuồng đến cứu thủy thủ tàu 604 bị chìm ở phía bãi Gạc Ma ngay gần đó.
Hành động dũng cảm ủi bãi của thuyền trưởng Vũ Huy Lễ và đồng đội đã giữ được đá Cô Lin.
Tại đá Len Đao, 8 giờ 20 phút ngày 14 tháng 3, Hải quân Trung Quốc bắn mãnh liệt vào tàu HQ-605 của Hải quân Việt Nam. Tàu 605 bị bốc cháy và chìm lúc 6 giờ ngày 15 tháng 3.
Thượng uý Nguyễn Văn Chương và trung uý Nguyễn Sĩ Minh tổ chức đưa thương binh và chiến sĩ về tàu 505 (sau khi bị bắn cháy nằm trên đá Cô Lin). Thi hài các chiến sĩ Trần Văn Phương, Nguyễn Văn Tư, cùng các thương binh nặng được đặt trên xuồng. Số người còn sức một tay bám thành xuồng một tay làm mái chèo đưa xuồng về đến đá Cô Lin.
Nhiều cứ liệu lịch sử, nhiều bài báo nhắc đến sự kiện này. Trong đó, có đoạn video đầy xúc động về trận chiến Trường Sa, do một bạn trẻ yêu nước đưa lên mạng từ năm 2009. Video thu hút hàng triệu lượt người xem, khi xem video này nhiều người xúc động không cầm được nước mắt
Khoảng một tháng sau trận hải chiến tại Gạc Ma, Hải quân Việt Nam đưa ba mươi lăm công binh và bảy thủy binh cùng vật liệu xây dựng bí mật đổ bộ trong đêm lên đá Len Đao xây nhà đánh dấu chủ quyền. Lặp lại kịch bản Gạc Ma, trong ngày Trung Quốc đưa bảy tàu chiến và nhiều xuồng nhỏ bao vây uy hiếp số quân Việt Nam trên đá. Tuy nhiên lần này Việt Nam cho bảy máy bay chiến đấu từ đất liền bay ra phía đá hỗ trợ nên số tàu chiến của Trung Quốc tản ra, đụng độ không nổ ra, phía Việt Nam giữ được đá và hoàn thành việc xây dựng nhà trên đá. Như vậy là Quân Đội nhân dân Việt Nam đã bảo vệ thành công Cô Lin và Len Đao trước âm mưu xâm chiếm lãnh thổ bằng vũ lực của Trung Quốc.
Trận chiến này, 64 chiến sĩ đã hy sinh, 11 chiến sĩ bị thương. Máu và thân xác các anh đã hòa cùng sóng biển nhưng tấm gương dũng cảm, mưu trí bảo vệ chủ quyền Tổ quốc của các anh sẽ mãi là những thiên sử anh hùng, bất diệt.
Có những sự kiện sau vài năm trôi qua đã lạc khỏi trí nhớ của nhiều người. Nhưng có những sự kiện lịch sử xảy ra hàng chục năm trước vẫn còn nguyên giá trị, để nhắc nhở các thế hệ sau về những biến cố khôn lường có thể xuất hiện trong tương lai. Trận chiến Gạc Ma 1988 cách đây 30 năm là một sự kiện như vậy!
30 năm đã qua là một khoảng thời gian tương đối dài…
Nhưng nó không bao giờ có thể xòa mờ đi sự kiện lịch sử đau thương vào ngày 14 tháng 3 năm 1988, khi 64 chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam đã anh dũng hy sinh trước nòng súng của quân Trung Quốc, trong quá trình bám đảo, giữ chủ quyền Tổ quốc.
Và sự kiện Gạc Ma của 30 năm trước cũng chưa khi nào vơi giá trị trong việc nhắc nhở các thế hệ cháu con Việt Nam không những không được phép chủ quan, mà còn phải nỗ lực phát triển kinh tế, công nghệ, quốc phòng để bảo vệ vững chắc chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam yêu dấu.