Sự kiện thảm sát Gạc Ma đã diễn ra 30 năm trước, nhưng bài học
kinh nghiệm luôn cần được đặt ra mổ xẻ để bánh xe lịch sử không lặp lại.
Thảm sát Gạc Ma
Ngày 14/3/1988 là một
ngày đặc biệt đối với người dân Việt Nam. Đó là ngày Trung Quốc xua quân tấn
công các chiến sĩ công binh của Việt Nam tại khu vực Trường Sa. Máu đã loang
trên mặt biển Đông. 64 chiến sĩ của chúng ta đã mãi mãi không trở về.
Nhiều bài viết gọi đây
là cuộc “hải chiến Trường Sa”. Cách gọi này hoàn toàn không đúng với bản chất
của sự kiện. Bởi vì, bên Trung Quốc đã dùng hải quân trang bị vũ khí tấn công,
gồm cả pháo tầm xa, còn bên ta chỉ là các chiến sĩ công binh với vũ khí bộ binh
phòng vệ. Bản chất của nó phải được gọi đúng tên là một cuộc thảm sát những
người lính công binh Việt Nam do lực lượng hải quân Trung Quốc gây ra.
Trung Quốc còn tàn độc
hơn khi không cho phép các tàu của lực lượng chữ thập đỏ ra cứu các nạn nhân,
cho dù đây luôn là thông lệ quốc tế trong chiến tranh.
Sự kiện đã diễn ra 30
năm, niềm đau thương, mất mát tưởng chừng như lắng dịu. Tuy vậy, những bài học
kinh nghiệm luôn cần được đặt ra, để làm sao cho bánh xe lịch sử không lặp lại
lần nữa.
Thời điểm để Trung Quốc ra tay
Khi tìm hiểu về tính
cách dân tộc Trung Quốc, Nguyễn Trãi đã tổng kết người Trung Quốc là “hiếu đại,
hỷ công, cùng binh, độc vũ”. Tính cách của người Trung Quốc còn được khái quát
qua nhân vật Tào Tháo trong Tam quốc Diễn nghĩa: “thà ta phụ người, còn hơn để
người phụ ta”. Khi hữu sự, người Trung Quốc thường sẵn sàng ra tay dùng vũ lực
lạnh lùng, tàn nhẫn, và luôn tấn công trước đối phương để đoạt tiên cơ.
Cho đến năm 1987,
Trung Quốc chưa hề có mặt trên bất cứ cấu trúc nào tại Trường Sa, và họ nhận
thấy đây là một bất lợi. Vì thế, từ đầu năm 1988, Trung Quốc đã ráo riết cho
quân lên chiếm một số cấu trúc địa lý thuộc Trường Sa, bao gồm: Chữ Thập, Châu
Viên, Huy Gơ, Ga Ven.
Về phía Việt Nam, mặc
dù tiềm lực còn hạn chế về mọi mặt nhưng chúng ta cũng quyết tâm cho các lực
lượng công binh ra xây dựng một số cấu trúc tại Trường Sa, nhằm khẳng định và
bảo vệ chủ quyền.
Không phải ngẫu nhiên
mà Trung Quốc đã chọn thời điểm đầu năm 1988 để tấn công Gạc Ma.
Binh pháp Tôn Tử của
Trung Quốc luôn nhấn mạnh vào “thời”, “thế” trong hoạt động chiến tranh. Thời
điểm năm 1988, Việt Nam rơi vào “thế” vô cùng hiểm nghèo. Chật vật qua hai cuộc
chiến tranh với hai đối thủ “hạng nặng” Pháp và Mỹ, Việt Nam vừa giành được
thống nhất đất nước, vết thương chiến tranh chưa kịp lành, kinh tế chưa hồi
phục thì ngay sau đó, quân Khmer đỏ tấn công biên giới Tây Nam. Khi Việt Nam
đang phải truy đuổi quân Khmer đỏ thì Trung Quốc dàn quân tấn công Việt Nam trên
6 tỉnh biên giới phía Bắc.
Kinh tế đất nước chật
vật, chạy ăn từng bữa, chiến tranh liên miên, đã khiến Việt Nam rơi vào thế
khó. Thời điểm đó, trong hoạt động đối ngoại, Việt Nam gần như bị cô lập hoàn
toàn. Mỹ vẫn đang cấm vận Việt Nam, Trung Quốc tấn công biên giới năm 1979 và
liên tiếp những năm sau đó là thời điểm căng thẳng tột độ giữa hai nước.
Sau sự kiện Campuchia,
ASEAN quay lưng ghẻ lạnh với Việt Nam. Chỗ dựa duy nhất của Việt Nam là Liên Xô
và khối Đông Âu thì lúc này đang trong cơn rệu rã (năm 1989 bức tường Berlin
sụp đổ và năm 1991, Liên Xô tan rã).
Khi Việt Nam rơi vào
thế cùng chính là thời cơ của Trung Quốc. Dư luận quốc tế thì đang chú ý đến sự
kiện Campuchia, tiềm lực Việt Nam thì kiệt quệ, đây chính là thời điểm tốt nhất
để Trung Quốc ra tay chiếm Trường Sa mà không bị sự phản đối nào đáng kể.
Khi Trung Quốc tấn
công Việt Nam ngày 14/3/1988, dư luận quốc tế thờ ơ, các nước ASEAN bàng quan
cho rằng đây là chuyện riêng giữa Việt Nam và Trung Quốc, kể cả Malaysia và
Philippines là những quốc gia trực tiếp có lợi ích tại Trường Sa.
Bài học lịch sử qua sự
kiện Gạc Ma là khi thế và lực của Việt Nam suy kiệt, thì đó sẽ là “thời” của
Trung Quốc, họ sẽ thẳng tay tấn công, xâm lấn, thâu tóm lãnh thổ. Trong bất kỳ
bối cảnh nào, chính sách đối ngoại luôn hết sức quan trọng, nhất là đối với
những nước nhỏ như Việt Nam. Nếu dư luận quốc tế lên tiếng thì Trung Quốc cũng
khó mà trơ tráo và hung hăng đến thế. Thêm nữa, đừng mong chờ có “cao nhân” nào
cứu giúp, tham chiến, khi chiến tranh xảy ra.
Trường Sa hôm nay
Sau khi chiếm được Gạc
Ma sau cuộc thảm sát ngày 14/3/1988, năm 1995 Trung Quốc chiếm thêm bãi Vành
Khăn từ tay Phillipines. Họ đã có tổng cộng bảy cấu trúc: Gạc Ma, Chữ Thập,
Châu Viên, Huy Gơ, Ga Ven, Xu Bi và Vành Khăn.
Kể từ năm 2014 đến nay,
lợi dụng thế giới đang tập trung vào sự kiện giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981,
Trung Quốc đã âm thầm tiến hành bồi lấp các cấu trúc tại Trường Sa, tổng diện
tích bồi lấp lên tới 800 ha. Đến nay, tất cả các cấu trúc này đều đã được xây
dựng và trang bị các phương tiện quân sự hiện đại, đóng vai trò như các “chiến
hạm nổi” tại khu vực biển này.
Cho đến nay, thực tế
là không có một quốc gia nào có thể ngăn cản được việc Trung Quốc bồi lấp các
cấu trúc tại Biển Đông, trong đó có Trường Sa. Và cùng với việc bồi lấp này,
Trung Quốc đã biến bảy cấu trúc thành các căn cứ quân sự quan trọng để nắm
quyền chi phối, kiểm soát khu vực Biển Đông bằng sức mạnh vũ lực.
Bên kia Thái Bình
Dương, đối thủ mạnh nhất và đáng gờm nhất của Trung Quốc là Hoa Kỳ. Việc nước
này có một tổng thống đầy tai tiếng và điều hành đất nước theo cách “không
giống ai” đã khiến cho Trung Quốc thay vì bị ngăn cản, lại trở nên ngày càng
mạnh hơn cả về “thế và lực”.
Một vấn đề cần đặt ra
là liệu trong tương lai gần, trước việc Trung Quốc càng ngày càng mạnh và “nhe
nanh múa vuốt” như vậy, có thể lặp lại việc tấn công Trường Sa tại các cấu trúc
mà Việt Nam đang kiểm soát?
Bối cảnh thế giới hiện
nay cho thấy, Trung Quốc đang gặp thời. Dù không ưa Trung Quốc đi chăng nữa,
cũng phải thừa nhận rằng, ảnh hưởng và thế lực của Trung Quốc càng ngày càng
mạnh lên, trong khi ảnh hưởng của Hoa Kỳ - đối thủ duy nhất có đủ sức mạnh kiềm
chế Trung Quốc dường như càng ngày càng đi xuống.
Tuy nhiên dù Trung
Quốc đang có thời nhưng Việt Nam không rơi vào thế cùng như trước nữa. Về đối
ngoại, Việt Nam đã thể hiện chính sách uyển chuyển. Việt Nam có quan hệ đối tác
chiến lược cùng lúc với Trung Quốc và nhiều cường quốc trên thế giới. Quan hệ
quân sự giữa Việt Nam và nhiều cường quốc đã liên tục phát triển. Tàu chiến Ấn
Độ, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia… nhiều lần ghé thăm Việt Nam. Mới đây,
hàng không mẫu hạm Carl Vinson của Hoa Kỳ ghé thăm cảng Đà Nẵng. Điều đó cho
thấy quan hệ của Việt Nam với các quốc gia trên thế giới đang phát triển đáng
kể, kể cả với các cựu thù như Hoa Kỳ.
Thế của Việt Nam đã
thay đổi, lực của Việt Nam cũng thay đổi theo. Dù cho tiềm lực quân sự của Việt
Nam không thể so sánh với Trung Quốc nhưng cũng không phải là không có khả năng
bảo vệ và gây thiệt hại cho đối phương nếu bị đối phương gây hấn, tấn công.
Việt Nam đã và đang đa dạng hóa nguồn vũ khí của mình, từ tên lửa của Nga, Ấn
Độ cho đến tàu chiến của Nga, Pháp… Việt Nam cũng đang cân nhắc việc mua các vũ
khí hiện đại từ Hoa Kỳ để tăng cường sức mạnh phòng vệ trên biển.
Dù hòa bình, hợp tác
là xu thế của thế giới hiện nay, thế nhưng nguy cơ về xung đột giữa Việt Nam và
Trung Quốc tại khu vực Trường Sa vẫn luôn hiện hữu. Sự kiện tàu thăm dò dầu khí
của công ty Repsol phải rút khỏi lô 136-03 (dù công ty này đã được Việt Nam cấp
phép hoạt động trên vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo các quy định của
luật biển quốc tế) là một minh chứng cho thấy nguy cơ tiềm ẩn đó. Nếu không
cảnh giác, tỉnh táo và chủ động, Việt Nam có thể sẽ bị cuốn vào một cuộc xung
đột như vậy trong tương lai.
Vì vậy, để tránh lặp
lại sự kiện Gạc Ma, một mặt Việt Nam cần tiếp tục phát triển chính sách đối
ngoại đa phương, tích cực tham gia các diễn đàn quốc tế, để tạo thế đứng trên
trường quốc tế. Mặt khác, Việt Nam cần tăng cường sức mạnh nội lực về kinh tế, quốc
phòng. Mặc dù, chính sách quốc phòng của Việt Nam tập trung vào bảo vệ đất
nước, nhưng nếu Việt Nam có sức mạnh quốc phòng đáng kể sẽ khiến đối phương
phải cân nhắc khi tấn công vũ trang, tạo sức mạnh răn đe.
Trong sức mạnh quốc
phòng ấy, thế trận lòng dân luôn là một phần quan trọng, có tính chất quyết
định trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc, hiện tại cũng như lâu dài.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét