Đồng chí Lê Duẩn - nhà lãnh đạo kiệt xuất của Đảng, người con ưu tú của quê hương Quảng Trị.

Đồng chí Lê Duẩn tên thật là Lê Văn Nhuận, sinh ngày 7-4-1907, trong một gia đình lao động có truyền thống yêu nước tại làng Bích La, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Với 79 tuổi đời, 56 năm tuổi Đảng, gần 60 năm hoạt động cách mạng, cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của đồng chí Lê Duẩn gắn liền với quá trình cách mạng của dân tộc ta từ những năm 20 đến những năm 80 của thế kỷ XX.
Cuộc đời chiến đấu kiên cường gần 60 năm của đồng chí Lê Duẩn cho độc lập, thống nhất của Tổ quốc, cho hạnh phúc của nhân dân, cho sự nghiệp cách mạng của Đảng là một tấm gương sáng chói về lòng trung thành vô hạn với lý tưởng cách mạng của Đảng và dân tộc, về ý chí và tinh thần cách mạng tiến công, về tình cảm nồng nàn, tha thiết với Tổ quốc và nhân dân, với đồng chí và đồng bào, về một tư duy không ngừng nghỉ để tìm tòi, sáng tạo trong đấu tranh và xây dựng...
Đồng chí Lê Duẩn- là người chiến sĩ cộng sản kiên cường, nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam; nhà lý luận lớn, một tư duy sáng tạo của cách mạng Việt Nam; một chiến sĩ quốc tế trong sáng; là người học trò xuất sắc, người cộng sự gần gũi và tin cậy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một nhân cách cộng sản mẫu mực; là người con ưu tú của quê hương Quảng Trị...Đồng chí Lê Duẩn thực sự là sản phẩm của trí tuệ cách mạng Việt Nam, của giá trị lịch sử - văn hóa Việt Nam, của ý chí độc lập, tự chủ Việt Nam, được thăng hoa dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh. Lịch sử nước ta mãi khẳng định công lao và cống hiến xuất sắc của đồng chí Lê Duẩn. Hình ảnh của đồng chí sống mãi trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.Hiểu sâu sắc những cống hiến to lớn của đồng chí Lê Duẩn với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, đồng thời là hành động thiết thực góp phần thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Với 26 năm liên tục đảm nhận cương vị Bí thư thứ nhất và Tổng Bí thư của Đảng, thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược của toàn dân tộc là xây dựng, bảo vệ chủ nghĩa xã hội, trong những thời điểm lịch sử đầy thử thách cam go, phức tạp, đồng chí Lê Duẩn đã có những đóng góp rất lớn cho cách mạng, thể hiện ở những quyết sách mang tính đột phá và tầm nhìn xa trong tư duy lãnh đạo. Đồng chí Lê Duẩn thực sự là tấm gương sáng của một chiến sĩ cộng sản tiên phong, trọn cuộc đời cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội; đồng thời là người con ưu tú của quê hương Quảng Trị anh hùng...


Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn và những phát ngôn "đỉnh cao trí tuệ"


     1. «Ta là người Việt Nam, nhưng ta hiểu rõ ta không phải là việc dễ, hiện nay chưa phải chúng ta đã hiểu rõ người Việt Nam lắm đâu. Muốn hiểu rõ mình thì cần phải đối chiếu với những người khác, nếu không thì bản thân mình cũng không hiểu rõ được mình». (Lê Duẩn: Xây dựng nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa - Nxb Văn Hoá, Hà Nội 1977, trang 59).
     2. «Trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, không phải nhất thiết sự vật chỉ có một khả năng mà luôn luôn có thể có nhiều khả năng tiến lên. Và sự vật tiến lên theo khả năng này hay khả năng kia còn tùy thuộc vào ý định của con người. Và để đạt đến mục đích nhất định, cũng không phải chỉ có một con đường mà luôn luôn có thể có nhiều con đường, cũng như muốn đi đến một điểm trung tâm, người ta có thể đi từ trên xuống, hoặc từ dưới lên, từ tả qua hay từ hữu lại». (Lê Duẩn: sđd trang 21).
      3. «Chế độ ta là chế độ chuyên chính vô sản. Chuyên chính trước hết phải là đường lối của giai cấp vô sản. Cốt tủy của chuyên chính vô sản là ở đó chứ không phải là ở chỗ sử dụng bạo lực. Đường lối đó là sự kết hợp lý luận Mác-Lê Nin với thực tiễn cách mạng của nước mình. Đường lối đó là khoa học nhất, là đúng quy luật, là bắt buộc. Đường lối đó không hề nhân nhượng với ai, chia sẻ với ai và hợp tác với ai cả. Đó là chuyên chính. Đường lối đó là: nhất thiết phải xóa bỏ giai cấp bóc lột, xóa bỏ chế độ sản xuất cá thể, xác lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Nhất thiết phải làm thế, không cho phép ai đi ngược lại. Đó là chuyên chính. Đường lối đó nhất thiết phải là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Không ai được chống lại. Đó là chuyên chính. Đường lối đó là đường lối của giai cấp công nhân, không ai được chống lại. Ai chống lại những cái đó thì bị bắt. Đó là chuyên chính»! (Văn kiện đảng toàn tập, tập 37, Nxb Chính trị Quốc gia 1976, trang 403-404).
      4. «Mục tiêu của cuộc cách mạng này là làm cho toàn dân, trước hết là nhân dân lao động, thấm nhuần tư tưởng xã hội chủ nghĩa, gạt bỏ thế giới quan và nhân sinh quan cũ, xây dựng thế giới quan của chủ nghĩa Mác-Lê Nin và nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa, làm cho chủ nghĩa Mác-Lê Nin chiếm ưu thế tuyệt đối trong đời sống tinh thần của nước ta và trở thành hệ tư tưởng của toàn dân, trên cơ sở đó mà xây dựng đạo đức mới (2) của nhân dân ta». (Lê Duẩn: sđd trang 10).
     5. «Nhật Bản phải tiến hành công nghiệp hoá trong năm sáu chục năm, nhưng họ không có nhiều nguyên liệu trong nước, họ phải nhập hầu hết; lúc bắt đầu công nghiệp hoá, lương thực bình quân đầu người chỉ có 124, 125 kilôgam. Còn ta thì hiện nay bình quân đầu người về lương thực đã trên 300 kilôgam và ta có nguyên liệu dồi dào, phong phú hơn Nhật Bản. Cho nên, chúng ta có căn cứ vững chắc để tin rằng chừng vài chục năm nữa chúng ta có thể tiến lên thành một nước có nền kinh tế tiên tiến». (Lê Duẩn: sđd trang 41).
      6. «Tất nhiên, cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhằm bịt con đường tư bản chủ nghĩa tự phát; bịt con đường đó là để tránh cho nông dân lao động và người thợ thủ công khỏi rơi vào cảnh bị bóc lột và bần cùng hoá. Bịt con đường phát triển tư bản chủ nghĩa không có nghĩa là chặn nhân dân lao động, không để cho họ vươn lên một đời sống dồi dào. Trái lại, đồng thời với việc chặn con đường phát triển tư bản chủ nghĩa, cải tạo xã hội chủ nghĩa nhằm mở ra con đường đưa nhân dân lao động đến ấm no, hạnh phúc». (Lê Duẩn: sđd trang 27).
       7. «Thủ công nghiệp là cách sản xuất của chế độ phong kiến; đại công nghiệp là cách sản xuất của chế độ tư bản chủ nghĩa và cũng là cách sản xuất của chủ nghĩa xã hội, giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản» (3). «Dưới chế độ phong kiến, sản xuất nhỏ chỉ có một khả năng là tiến lên sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa. Nhưng hiện nay [4/1962] là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội; trên thế giới có phe xã hội chủ nghĩa có nên công nghiệp tiên tiến, cho nên với sự giúp đỡ của phe xã hội chủ nghĩa, sản xuất nhỏ có thể tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Chúng ta đang tiến như thế». «Bằng chứng là trong bảy năm qua, chúng ta đã xây dựng được một số cơ sở công nghiệp nhẹ, trong lúc công nghiệp nặng ta chưa có bao nhiêu. Và chúng ta dự định đến năm 1965 chúng ta có thể sản xuất được gần hết những hàng tiêu dùng thông thường. Chúng ta tiến thẳng từ sản xuất nhỏ cá thể lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Nhờ có sự giúp đỡ và hợp tác của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, chúng ta có điều kiện xây dựng những xí nghiệp kỹ thuật hiện đại, trang bị bằng kỹ thuật mới cho các ngành kinh tế». (Lê Duẩn: sđd trang 37, 39).
      8. «Ta không nên quá sợ chủ nghĩa tư bản, nhất là đừng sợ chủ nghĩa tư bản một cách vô căn cứ». «Các nước xã hội chủ nghĩa khác với các nước tư bản chủ nghĩa ở chỗ bọn tư bản thì cạnh tranh, giành giật nhau, còn các nước xã hội chủ nghĩa thì hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau» (5). «Trong thời gian qua, các nước anh em giúp ta rất nhiều, viện trợ không phải hoàn lại hàng nghìn triệu đồng. Chỉ có những nước xã hội chủ nghĩa mới có thể giúp đỡ nhau như vậy. Nhưng đó là bước đầu, còn sau này khi chúng ta đã trưởng thành lên thì chẳng lẽ chúng ta cứ nhờ vả như vậy mãi sao? Không, chúng ta phải dựa vào sức của mình là chính để tiến hành công nghiệp hoá. Ỷ lại vào sự giúp đỡ một chiều của các nước anh em là không đúng; đó là tư tưởng ích kỷ, ăn bám» [!]. (Lê Duẩn: sđd trang 42, 44).
     9. «Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, giai cấp vô sản là giai cấp gồm những người làm thuê, bị tưóc đoạt mọi quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, nguồn sống duy nhất của họ là bán sức lao động cho những người chiếm hữu tư liệu sản xuất là giai cấp tư sản; hơn nữa giai cấp vô sản là lực lượng chủ yếu trong việc sản xuất ra của cải vật chất, là giai cấp tiên tiến đại biểu cho một phương thức sản xuất tiến bộ nhất, do đó giai cấp vô sản là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất, là giai cấp duy nhất có khả năng lãnh đạo toàn thể quần chúng bị áp bức, bóc lột đấu tranh nhằm tiêu diệt chế độ người bóc lột người, là giai cấp duy nhất có khả năng lật đổ chủ nghĩa tư bản, xây dựng một xã hội mới: xã hội cộng sản chủ nghĩa».
      «Giai cấp tiểu tư sản không muốn lao động vất vả, không căm ghét ăn bám, bóc lột; ngại khó khăn gian khổ, thường tính toán "được mất" cá nhân mà ít nghĩ đến nhiệm vụ cách mạng. Trong chế độ cũ, giai cấp tư sản thường chỉ nắm những vị trí then chốt về kinh tế, chính trị và để cho những người trong giai cấp tiểu tư sản "làm quan" cho chúng. Ngày nay, có một số thanh niên trí thức cũng muốn "làm quan" cho giai cấp vô sản. Họ muốn làm cách mạng một cách "an nhàn", "thoải mái", sợ đấu tranh gay gắt, sợ hy sinh phấn đấu, thích hoà bình hưởng lạc»(Lê Duẩn: sđd, trang 106, 109).
      10. «Áp dụng phổ biến quy luật của tiến hoá là phê bình và tự phê bình, là biện pháp có tầm quan trọng đặc biệt», «vì tự phê bình và phê bình là quy luật của sự tiến bộ, là vũ khí tốt để rèn luyện tư tưởng». (Lê Duẩn: sđd trang 110, 155).
      11. «Tết Bính Thìn 1976, về thăm quê ở làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong, Quảng Trị. Mồng 1 Tết mà tôi đến thăm nhà nào cũng thấy luộc sắn. Bà con ta còn nghèo quá! Trong đời hoạt động cách mạng, tôi đã chịu nghèo khổ, nhưng bây giờ đất nước đã được thống nhất, phải lo làm sao để cho dân giàu lên. Phấn đấu để đồng bào ta, các ông bà già, trẻ con mỗi bữa có một quả trứng, một cốc sữa mà rất khó». «Trong vòng mười năm nữa, mỗi gia đình ở Việt Nam sẽ có một radio, một TV và một tủ lạnh»! (Quang Hào ghi: 13 năm làm cận vệ cho TBT Lê Duẩn, Văn nghệ Công an online, 05/2//2007).
     12. «Tôi hỏi thì nói không có tiền. Kìa, không có thì in ra! In ra! Không sợ lạm phát! Tư bản đế quốc in tiền mới lạm phát, chứ ta, chuyên chính vô sản thì sao lại là lạm phát mà sợ»! (Trần Đĩnh: Đèn Cù 1, cuối trang 186, đầu trang 187).
     13. «Phạm Dương, tình báo và tham tán của phái đoàn Việt Nam bảy năm tại Liên Hợp Quốc nói sau tháng 5/1975, đám chuyên viên kinh tế bạn anh báo cáo với Lê Duẩn rằng Đông Nam Á, Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan tiến mạnh được là nhờ gia công cho các nước v.v. thì Lê Duẩn nạt: Lại muốn học chúng nó làm nô lệ ư? » (Trần Đĩnh: Đèn Cù 2, trang 281).
     14. «Trong xã hội tư bản, người làm nhiều lại hưởng ít, người không làm lại hưởng nhiều; con người chạy theo lợi ích vật chất, vì lợi ích vật chất mà làm hại nhau, chèn ép nhau, mạnh được yếu thua; lợi ích vật chất thể hiện quan hệ giữa người bóc lột và người bị bóc lột. Còn dưới chế độ xã hội chủ nghĩa thì làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít; thực chất của vấn đề lợi ích vật chất ở đây là vấn đề công bằng, hợp lý». (Lê Duẩn: sđd trang 62).
     15. «Có đồng chí làm cho trung nông sợ có "khả năng", vì thế họ không dám sản xuất nhiều nữa, mà chỉ làm vừa đủ ăn thôi. Ở đôi nơi, do vận dụng không thoả đáng đường lối giai cấp, nên có tình hình là bần nông có quyền lợi chính trị nhiều, còn trung nông thì quyền lợi chính trị ít, làm cho trung nông sợ mất quyền lợi chính trị, nông dân sợ trở thành trung nông, nên không tích cực sản xuất nhiều hơn nữa». (Lê Duẩn: sđd, trang 35).
     17. «Chúng ta phải nghiêm khắc phê phán để khắc phục những quan điểm quản lý tư bản chủ nghĩa như lối kinh doanh đơn thuần chạy theo lời lỗ, thiếu quan điểm phục vụ sản xuất, tách rời chính trị, những tập quán kinh doanh theo lối cá thể, phân tán, vô tổ chức, dẫn đến tình trạng cục bộ, bản vị, thiếu tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa giữa các xí nghiệp, giữa các ngành kinh tế, tài chính với nhau.
     Chúng ta phải kiên quyết tẩy trừ tệ tham ô, lãng phí, quan liêu, vì chẳng những nó làm tổn hại nghiêm trọng đến công quỹ của quốc gia, mà còn có thể đẩy cán bộ công nhân ta ngập sâu dưới vũng bùn của giai cấp tư sản. Tham ô là con đẻ của tư tưởng ăn bám, bóc lột; lãng phí tuy còn do nhiều nguyên nhân khác về trình độ quản lý, trình độ kỹ thuật, nhưng thông thường là con đẻ của óc làm thuê, không xót xa với của cải, mồ hôi nước mắt của nhân dân lao động; bệnh quan liêu xét cho cùng là sự thoái hoá theo tác phong của những giai cấp bóc lột». (Lê Duẩn: sđd trang 105).
    18. «Loài người cho đến nay đã có ba phát minh vĩ đại có ý nghĩa bước ngoặt của lịch sử. Thứ nhất là tìm ra lửa. Thứ hai là tìm ra cách sử dụng kim khí. Thứ ba là làm chủ tập thể». (Thuyết giảng tại trường Nguyễn Ái Quốc, 13/3/1977 * “Hồ sơ lãnh tụ Lê Duẩn”, Kho lưu trữ Học viện Quốc gia HCM). "Làm chủ tập thể chính là cái đúng, cái tốt và cái đẹp cao nhất mà con người đang vươn tới trong thời đại mới”. (Lê Duẩn: Nội dung cơ bản của cách mạng xhcn ở Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội 1986, trang 564).
     19. «Con người mới xã hội chủ nghĩa là con người lao động Việt Nam làm chủ tập thể. Chỉ có chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, một chế độ hoàn toàn mới mẻ trong lịch sử, mới giải phóng không những cho cả xã hội, mà còn giải phóng cho từng gia đình, đem lại cuộc sống mới cho cả xã hội và từng gia đình, kết hợp hài hoà lợi ích và hạnh phúc của xã hội với lợi ích và hạnh phúc của gia đình». «Tư tưởng làm chủ tập thể mà chúng ta xây dựng là tư tưởng làm chủ tập thể trên lập trường của giai cấp công nhân. Nó không những chống lại ý thức làm chủ cá thể của bọn tư bản và của những người sản xuất nhỏ, mà còn chống lại cả tư tưởng "tập thể" theo lối phường hội, đem tập thể nhỏ của mình tách rời sự lãnh đạo tập trung của Nhà nước vô sản, đem lợi ích của tập thể này đối lập với lợi ích của tập thể kia». (Lê Duẩn: sđd trang 120, 128).
      20. «Không có nhiệt tình cách mạng thì không thể có hành động cách mạng; song, nếu chỉ có nhiệt tình không thôi thì nhiều nhất cũng chỉ có thể phá được cái cũ chứ không thể xây dựng được xã hội mới». (9) (Lê Duẩn: sđd trang 121).
      21. «Hiện nay, thường có tình hình là đối với một vấn đề nào đó, có nhiều người nói tới nhưng chỉ mới nói theo sách vở, nói những cái của người khác, chứ chưa thực sự biến những điều đó thành cái của mình». (Lê Duẩn: sđd trang 56).


Tư duy sáng tạo, tầm nhìn chiến lược của Tổng Bí thư Lê Duẩn với Cách mạng Việt Nam

Tổng Bí thư Lê Duẩn - Anh Ba, như cách gọi trìu mến và kính trọng của đồng chí, đồng bào - là một trong những chiến sĩ cách mạng tiền bối kiên cường, nhà lãnh đạo kiệt xuất của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, một trí tuệ lớn, tài năng lớn của cách mạng Việt Nam, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 

Gần 60 năm hoạt động liên tục, được tôi luyện trong thực tiễn cách mạng trên cả ba miền đất nước, với tư duy sáng tạo, tầm nhìn xa, trông rộng rất đặc biệt, gắn kết chặt chẽ với tổng kết thực tiễn, đồng chí Lê Duẩn đã cùng tập thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, xây dựng và lãnh đạo thực hiện thắng lợi đường lối, chiến lược cách mạng đúng đắn, góp phần làm phong phú lý luận của cách mạng Việt Nam, viết nên những trang sử chói lọi, hào hùng trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, đưa nước nhà vững bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
Sinh thời, đồng chí Lê Duẩn hay nhắc tới luận điểm nổi tiếng của V.I. Lê-nin “chân lý là cụ thể” và cho rằng “cách mạng là sáng tạo”. Trong kho tàng tư tưởng lý luận của Tổng Bí thư Lê Duẩn, tư duy sáng tạo, độc lập, tự chủ, tầm nhìn chiến lược hết sức sâu sắc của đồng chí trong tiến trình phát triển và trước những tình huống phức tạp của cách mạng, nhất là trong các giai đoạn có tính quyết định của lịch sử, là di sản vô cùng quý báu đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nướcvà hội nhập quốc tế. 
            Tư duy sáng tạo, tầm nhìn chiến lược của đồng chí Lê Duẩn được thể hiện từ rất sớm, tiêu biểu là những đóng góp xuất sắc của đồng chí cùng với Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ vào thành công của Hội nghị Trung ương lần thứ sáu (tháng 11-1939), Hội nghị mở đầu quá trình chuyển hướng chiến lược cách mạng Việt Nam. Hội nghị nhận định: “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy độc lập” Dựa trên sự chuyển hướng chiến lược cách mạng, Hội nghị đã chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, sớm thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương nhằm đánh đổ chế độ thuộc địa dã man, tàn bạo. 
        Trên cương vị Bí thư Xứ ủy Nam Bộ, do không dự được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng vào tháng 2-1951, đồng chí Lê Duẩn đã đóng góp nhiều nội dung quan trọng với Đại hội về giai cấp vô sản và Đảng Cộng sản; về vị trí, vai trò lãnh đạo của giai cấp vô sản trong cách mạng Việt Nam; về vị trí, vai trò của nông dân trong cách mạng vô sản Việt Nam; về chiến tranh nhân dân; về chính sách kinh tế; về chính trị và chính quyền... 
           Bằng những luận cứ hết sức vững chắc cả về lý luận và thực tiễn, Đồng chí đã phân tích sâu sắc, khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp vô sản trong cách mạng Việt Nam và nêu rõ: “Không hiểu rõ những đặc điểm cách mạng Việt Nam, nhận xét giai cấp vô sản Việt Nam tách rời phong trào cách mạng vô sản thế giới, tách rời tình hình cụ thể về chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước và quá trình chuyển biến của phong trào giải phóng dân tộc qua các thời kỳ, thì chúng ta sẽ không đánh giá một cách đầy đủ vai trò lãnh đạo của giai cấp vô sản đối với cách mạng Việt Nam”. 
           Những ý kiến đóng góp của đồng chí Lê Duẩn đã góp phần quan trọng để Đại hội lần thứ II của Đảng đề ra đường lối chiến tranh nhân dân, lãnh đạo toàn dân ta đánh thắng thực dân Pháp và can thiệp Mỹ mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Trong những năm tháng vô cùng gian khổ dưới chế độ độc tài Mỹ - Diệm, bị địch khủng bố ác liệt, Đồng chí vừa chỉ đạo củng cố phong trào, xây dựng cơ sở cách mạng, vừa trăn trở, tìm tòi, suy nghĩ về con đường đưa cách mạng miền Nam tiến lên. 
Với tư duy và tầm nhìn của một nhà chiến lược lớn, tác phẩm “Đề cương cách mạng miền Nam” nổi tiếng của đồng chí Lê Duẩn viết trong thời gian đó đã phân tích, đánh giá sâu sắc, dự báo chính xác tình hình miền Nam sau hai năm thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, đề ra mục đích, nhiệm vụ và đối tượng của cách mạng miền Nam: “Trong hoàn cảnh đó, nhân dân ta ở miền Nam chỉ có một con đường là vùng lên chống lại Mỹ - Diệm để cứu nước và tự cứu mình. Đó là con đường cách mạng. Ngoài con đường đó, không có con đường nào khác”. 
         Chủ trương kết hợp nhuần nhuyễn đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, hậu phương lớn gắn với tiền tuyến lớn, phối hợp chặt chẽ giữa ba vùng chiến lược (rừng núi, đồng bằng, đô thị) tạo thành sức mạnh to lớn của cả dân tộc, đã dấy lên niềm tin vững chắc vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng. Đề cương là cơ sở quan trọng để Ban Chấp hành Trung ương Đảng đề ra Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 (mở rộng) “Về tăng cường đoàn kết, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà”, trong đó khẳng định “Nhiệm vụ cơ bản là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến”. 
         Nghị quyết đã phản ánh đúng đắn nguyện vọng của đồng chí, đồng bào cả nước, đặc biệt là khát vọng nóng bỏng của đồng chí, đồng bào miền Nam về chuyển sang đấu tranh vũ trang, bảo vệ thành quả cách mạng, từ đó dấy lên phong trào Đồng khởi, liên tiếp làm thất bại chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ, Việt Nam hóa chiến tranh, buộc đế quốc Mỹ và tay sai phải ngồi vào bàn đàm phán với ta...
          Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực phức tạp lúc bấy giờ, chủ trương tiến hành đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao chứng tỏ bản lĩnh chính trị kiên định của Đảng ta, trong đó có sự đóng góp thiết thực, hiệu quả của đồng chí Lê Duẩn. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (tháng 9-1960) do đồng chí Lê Duẩn trình bày là một văn kiện chính trị quan trọng, trong đó nhận định: “Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, nhưng do trước mắt cùng có một mục tiêu chung là thực hiện thống nhất nước nhà, cho nên quan hệ mật thiết với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển”
Báo cáo cũng khẳng định: “Nước Việt Nam ta là một, dân tộc Việt Nam ta là một. Nhất định nước ta sẽ được thống nhất trên cơ sở độc lập và dân chủ, nhất định dân tộc sẽ được đoàn tụ trong hòa bình, tự do và hạnh phúc. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng ý chí thống nhất Tổ quốc của nhân dân cả nước ta quyết không bao giờ lay chuyển và cuối cùng chúng ta nhất định sẽ giành được thắng lợi”. Dự báo thiên tài của Đảng ta, của đồng chí Lê Duẩn đã trở thành hiện thực sau 15 năm.
         Từ Đại hội lần thứ III của Đảng, trong suốt 26 năm, trên cương vị Bí thư thứ nhất, sau là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí Lê Duẩn đã cùng Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị hoạch định, phát triển hết sức phong phú đường lối, chiến lược, phương pháp cách mạng, đường lối, nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh nhân dân giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội.

            Đối với phong trào cách mạng miền Nam, đồng chí Lê Duẩn - được mệnh danh là “Ông hai trăm Bu-gi” - có nhiều suy nghĩ, chủ trương, cách làm độc đáo, sáng suốt, đề xuất với Trung ương những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, giải pháp tối ưu đưa cách mạng miền Nam tiến lên vững chắc. Trong đó, nổi bật là tư tưởng chiến lược tiến công và nghệ thuật biết thắng từng bước; sử dụng bạo lực cách mạng với hai lực lượng chính trị và vũ trang; đánh địch và thắng địch bằng sức mạnh tổng hợp; đề cao lòng tự hào dân tộc và luôn phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng; xây dựng tinh thần độc lập tự chủ, đồng thời phải không ngừng giáo dục tinh thần quốc tế vô sản. 
         Trong tâm khảm đồng chí Lê Duẩn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước luôn là mệnh lệnh, lời thề thiêng liêng mà Đồng chí đã thay mặt toàn Đảng, toàn dân và toàn quân hứa trước anh linh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại trong Lễ tang của Người năm 1969.

         Tư duy sáng tạo, sự chỉ đạo quyết liệt của đồng chí Lê Duẩn được thể hiện và phát huy cao độ trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa Xuân năm 1975. Trong bức điện gửi các đồng chí lãnh đạo Trung ương cục miền Nam ngày 9-4-1975, Đồng chí nêu rõ: “Cần bảo đảm một khi đã phát động tiến công thì phải công kích thật mạnh và liên tục, dồn dập cho đến toàn thắng; vừa tiến công ở ngoại vi, vừa nắm kịp thời cơ, thọc sâu vào trung tâm Sài Gòn từ nhiều hướng với những lực lượng đã chuẩn bị sẵn. Thực hiện từ ngoài đánh vào, từ trong đánh ra, tạo điều kiện cho đồng bào nổi dậy, không chia làm hai bước. Đó là phương án cơ bản và chắc thắng nhất. Trong tình hình hiện nay, thần tốc, táo bạo, bất ngờ là ở chỗ đó”
         Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đồng chí Lê Duẩn luôn chăm lo, củng cố và tăng cường đoàn kết giữa các đảng anh em, giữa các lực lượng cách mạng trên thế giới trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Những luận điểm đúng đắn của Đồng chí về phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, tăng cường đoàn kết, đẩy mạnh đấu tranh đòi dân chủ, tiến bộ xã hội, vì tự do, công lý, vì nhân phẩm và quyền sống của con người, bảo vệ hòa bình, chủ quyền dân tộc..., đặc biệt luận điểm “chúng ta cũng sẵn sàng đặt quan hệ với tất cả các nước trên thế giới tôn trọng chủ quyền và độc lập của nước ta, trên cơ sở bình đẳng và hai bên cùng có lợi”, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. 
        Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng ta lãnh đạo sự nghiệp thống nhất đất nước, khôi phục kinh tế sau chiến tranh, hoạch định đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước, đồng chí Lê Duẩn nhận định: “Một trang sử mới vô cùng rực rỡ của Tổ quốc ta bắt đầu. Một nhiệm vụ mới vô cùng vĩ đại và làm phấn chấn lòng người đang chờ đón 45 triệu đồng bào ta là thực hiện đầy đủ Di chúc của Bác Hồ vĩ đại: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Chúng ta hãy bắt tay vào công cuộc xây dựng và lao động sáng tạo, làm cho nước Việt Nam tiến bộ, phồn vinh, nhân dân no ấm, hạnh phúc” 
     Trong lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, đồng chí Lê Duẩn đã có những đóng góp lý luận quan trọng trong việc tìm tòi con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Đó là các quan điểm giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội... Đồng chí luôn coi trọng xây dựng, phát triển văn hóa, “xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, đem lại giá trị chân chính cho con người, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện, trở thành chủ thể có ý thức trong sáng tạo lịch sử”. 
        Từ quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng chí Lê Duẩn luôn trăn trở, nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thường xuyên chăm lo đời sống của nhân dân: “Bây giờ trước hết phải lo cho dân có cơm ăn, áo mặc, con em phải đến trường, phải lo cho tất cả mọi người, không phân biệt “bên này, bên kia” vì ai cũng là công dân Việt Nam”. 
        Tư duy sáng tạo của Đồng chí được thể hiện rõ nét khi Đảng ta bước đầu khởi xướng quá trình đổi mới quản lý kinh tế từ Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa V) “Về những nhiệm vụ cấp bách trong công tác cải tiến quản lý kinh tế”. Đồng chí khẳng định: “Đảng và Nhà nước ta đã có những cố gắng to lớn khắc phục một bước cơ chế quản lý quan liêu, bao cấp và xúc tiến việc hoàn chỉnh cơ chế quản lý mới nhằm thực hiện đúng những nguyên tắc quản lý kinh tế, vừa bảo đảm sự tập trung thống nhất quản lý của Trung ương vừa mở rộng và phát huy quyền chủ động sáng tạo của các cơ sở, các địa phương, các ngành trong sản xuất kinh doanh, thực hiện quyền làm chủ tập thể của quần chúng lao động, khuyến khích mạnh mẽ tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh tế”. Cho đến cuối đời, đồng chí Lê Duẩn vẫn không ngừng trăn trở với những vấn đề cuộc sống đặt ra, suy nghĩ, tìm tòi con đường xã hội chủ nghĩa phù hợp với cách mạng Việt Nam. 

           Sau hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, cách mạng Việt Nam đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Thực tiễn đã khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn, kế thừa, phát huy những bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng của các thế hệ lãnh đạo tiền bối. Trong bối cảnh tình hình thế giới, trong nước thường xuyên biến đổi, công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu, nảy sinh nhiều vấn đề mới đòi hỏi Đảng ta không ngừng nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, tiếp tục vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đưa cách mạng Việt Nam tiến lên, thì tư duy sáng tạo, tầm nhìn chiến lược của Tổng Bí thư Lê Duẩn vẫn còn nguyên giá trị cả về lý luận và thực tiễn, là định hướng đúng đắn cho việc hoạch định và lãnh đạo thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới. 

          Kỷ niệm 110 năm Ngày sinh Tổng Bí thư Lê Duẩn, chúng ta thành kính tôn vinh, bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về những công lao to lớn và cống hiến xuất sắc của Đồng chí với cách mạng Việt Nam và nguyện noi theo tấm gương sáng ngời của người cộng sản kiên trung, nhà lãnh đạo kiệt xuất, suốt đời một lòng, một dạ trung thành với lý tưởng, sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và của dân tộc, cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì tự do và hạnh phúc của nhân dân.

LỢI DỤNG SỰ CỐ MÔI TRƯỜNG ĐỂ XUYÊN TẠC, KÍCH ĐỘNG, GÂY RỐI LÀM ẢNH HƯỞNG AN NINH CHÍNH TRỊ LÀ CÓ TỘI VỚI NHÂN DÂN VÀ TỔ QUỐC


Một năm đã trôi qua nhưng trong những ngày gần đây, lợi dụng sự cố môi trường ven biển bốn tỉnh miền Trung, gồm: Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, làm hải sản chết bất thường, gây thiệt hại lớn về kinh tế - xã hội, môi trường biển; ảnh hưởng xấu đời sống của người dân, an ninh trật tự và an toàn xã hội; một số phần tử quá khích đã tập trung biểu tình gây mất trật tự an toàn xã hội.
Ngay sau khi có thông tin về sự cố, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, trực tiếp và thường xuyên là Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt triển khai kịp thời các biện pháp hỗ trợ, ổn định cuộc sống của người dân vùng bị thiệt hại... Đồng thời, chỉ đạo các bộ, ngành, các cơ quan khoa học, trên tinh thần thận trọng, khoa học, chính xác, khách quan và đúng pháp luật; xác định, làm rõ nguyên nhân, đối tượng gây ra sự cố để có giải pháp xử lý.
Theo đó, Bộ Khoa học và Công nghệ đã chủ trì, phối hợp Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, các bộ, ngành liên quan, huy động hơn 100 chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành từ 30 cơ quan trong nước và một số nước: Mỹ, Đức, Nhật, Israel,… tổ chức thu thập, phân tích dữ liệu, có sự phản biện độc lập của các chuyên gia quốc tế, đã xác định có nguồn thải lớn xuất phát từ khu vực Vũng Áng, tỉnh Hà Tĩnh, chứa độc tố như phê-non, xy-a-nua,… kết hợp hy-đrô-xít sắt, tạo thành một dạng phức hỗn hợp (mixel), có tỷ trọng lớn hơn nước biển, theo dòng hải lưu di chuyển theo hướng Bắc - Nam từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên - Huế, là nguyên nhân làm hải sản và sinh vật biển chết hàng loạt, nhất là ở tầng đáy.
Với những chứng cứ khách quan, khoa học, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chủ trì, phối hợp các Bộ: Ngoại giao, Tư pháp, Công an, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, KH-CN, Viện Hàn lâm KH-CN Việt Nam, tỉnh Hà Tĩnh và các bộ, ngành khác có liên quan đã nhiều lần làm việc với Tập đoàn Formosa Đài Loan, Công ty Formosa Hà Tĩnh. Như các phương tiện thông tin đã đăng tải, ngày 28/6/2016, Công ty Formosa Hà Tĩnh đã nhận trách nhiệm về việc gây ra sự cố môi trường nói trên đồng thời đã công khai xin lỗi Chính phủ và Nhân dân Việt Nam vì để xảy ra sự cố môi trường nghiêm trọng; thực hiện việc bồi thường thiệt hại kinh tế cho người dân và hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp; bồi thường xử lý ô nhiễm và phục hồi môi trường biển tại bốn tỉnh nói trên, với tổng số tiền hơn 11.500 tỷ đồng (tương đương 500 triệu USD); khắc phục triệt để các tồn tại, hạn chế của hệ thống xử lý chất thải, nước thải, hoàn thiện công nghệ sản xuất, bảo đảm xử lý triệt để các chất thải độc hại trước khi thải ra môi trường theo yêu cầu của các cơ quan quản lý Nhà nước của Trung ương và tỉnh Hà Tĩnh, để không tái diễn sự cố môi trường như đã xảy ra.
Với trách nhiệm trước Nhân dân và đất nước, Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương và các địa phương liên quan đã vào cuộc, sự cố môi trường ở 4 tỉnh ven biển miền Trung từng bước được xử lý, ngư dân vùng bị thiệt hại được hỗ trợ để tái sản xuất, ổn định cuộc sống,… Vì thế, những chiêu trò cắt dán, gán ghép thông tin đã có phần “hạ nhiệt”. Tuy nhiên, âm mưu kích động vẫn chưa dừng lại. Một số trang mạng phản động, trong đó có trang facebook Việt Tân, lại lấy hình ảnh chim trời chết để gán ghép với thông tin bịa đặt rằng, sau cá chết đến lượt chim trời ở Quảng Bình chết để làm “nóng” thêm vấn đề, từ đó xúi giục, kích động dư luận. Qua đây  cho thấy, các thế lực thù địch và những phần tử phản động luôn lợi dụng bất cứ cơ hội nào có thể nhằm thực hiện ý đồ chính trị chống phá Đảng, Nhà nước, gây rối ren trong nội bộ, làm mất lòng tin của người dân với Đảng, Nhà nước mặc dù sự chỉ đạo của Đảng, Chính phủ rất quyết liệt, cụ thể.
Tại cuộc làm việc với các địa phương bị ảnh hưởng do hải sản chết bất thường vào ngày 1/5, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã chỉ rõ: “Một số địa phương còn chậm trong việc báo cáo đề xuất giải pháp xử lý; một số bộ, ngành chưa kịp thời xử lý các tình huống nảy sinh trong lĩnh vực quản lý của ngành; công tác phối hợp giữa các bộ, ngành với nhau và giữa các bộ, ngành với địa phương còn lúng túng, thiếu chặt chẽ, thiếu thống nhất nên hiệu quả xử lý vấn đề này chưa đáp ứng yêu cầu; công tác quản lý môi trường còn nhiều bất cập, nhất là việc quan trắc, giám sát nước thải ở một số nhà máy liên quan còn lỏng lẻo; một số đối tượng xấu đã lợi dụng tình trạng hải sản chết có ảnh hưởng đến đời sống người dân để kích động, lôi kéo quần chúng gây rối, làm phức tạp tình hình...”. Vậy là quá rõ, còn đòi hỏi gì nữa ?
Có thể thấy rằng, Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương đã rất nỗ lực trong việc xử lý và khắc phục hậu quả sự cố môi trường ở vùng ven biển một số tỉnh miền Trung. Việc giúp ngư dân tái sản xuất, ổn định cuộc sống, từng bước khắc phục sự cố môi trường, ổn định tình hình. Những chủ trương, giải pháp kịp thời nhằm hỗ trợ, tiếp sức cho ngư dân đánh bắt và tiêu thụ hải sản sạch, giữ vững an ninh trật tự,... đã được triển khai nhanh chóng, đồng bộ, hiệu quả bằng những hành động hỗ trợ đầy tính nhân văn, thiết thực. Đời sống, sản xuất của ngư dân từng bước được khôi phục. Sự thận trọng, điều tra xác minh sự cố môi trường một cách bài bản, có hệ thống chính là thể hiện tinh thần trách nhiệm cao của Đảng, Nhà nước ta để đảm bảo nguyên nhân thật sự khách quan, chính xác và có giải pháp tháo gỡ kịp thời. Đó là một việc làm cần thiết. 
Sự thật là như vậy. Thế nhưng, các thế lực phản động ở nước ngoài đã cấu kết với một số đối tượng cực đoan, chống đối trong nước lợi dụng mạng lưới truyền thông, đặc biệt là mạng xã hội, lợi dụng sự cố về môi trường để thực hiện mưu đồ chính trị, ra sức tuyên truyền, kích động, lôi kéo người dân thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật, chống đối Đảng, Nhà nước, phá hoại an ninh kinh tế, chính trị của đất nước. Đáng tiếc, do thiếu thông tin, một số người đã bình luận, chia sẻ, phát tán những thông tin, hình ảnh gán ghép và coi đó là sự phản ánh thực trạng “khủng khiếp” của sự cố môi trường ở 4 tỉnh ven biển miền Trung. Trong đó có các bài viết có nội dung chống phá Đảng, Nhà nước ta, rồi chia sẻ trên mạng xã hội để tạo nên sự nhiễu loạn thông tin, thật giả, trắng đen lẫn lộn nhằm chỉ trích Đảng, Nhà nước, kích động người dân gây rối.
Trong lúc Đảng, Nhà nước và chính quyền các địa phương đang nỗ lực cao độ để xử lý khắc phục sự cố môi trường nghiêm trọng ở các tỉnh ven biển miền Trung, thì các đối tượng xấu tung ra những chương trình đầy lời lừa phỉnh người dân với hành động hô hào, kích động tuần hành gắn với phản đối.
Đến nay sự việc đã rõ ràng. Đây cũng là bài học để mỗi người dân cần bình tĩnh, tỉnh táo, có niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, các cơ quan chức năng và không nên nghe theo những ý kiến cảm tính với những luận điệu xuyên tạc, kích động làm rối ren, phức tạp tình hình. Việc tái thiết môi trường, phát triển nghề cá ổn định, bền vững ở vùng biển miền Trung và cả nước là vấn đề sống còn của môi trường và kinh tế biển, an ninh biển. Chắc chắn sau sự cố này, cần rút ra những kinh nghiệm, bài học trong việc bảo vệ môi trường, ứng phó kịp thời, huy động nguồn lực giải quyết sự cố nhanh chóng, ngăn chặn và hạn chế tối đa sự cố tương tự có thể xảy ra, khắc phục những “khoảng trống” thông tin,… Nhưng điều quan trọng là mọi người cần nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của các phần tử xấu câu kết với các thế lực thù địch, nêu cao tinh thần cảnh giác trước những thông tin bịa đặt trên mạng truyền thông để không mắc mưu, không để cho chúng lợi dụng kích động, chống phá, nếu không sẽ vô tình tiếp tay cho kẻ xấu. 
Đúng như Bộ trưởng Thông tin và Truyền thông Trương Minh Tuấn đã nói, việc công bố nguyên nhân chứng tỏ Đảng, Nhà nước Việt Nam công khai minh bạch xử lý vấn đề này; kiên quyết chỉ đạo xử lý nghiêm theo pháp luật. Kết quả điều tra là khách quan, hoàn toàn không có sự can thiệp làm chậm hay sai lệch quá trình điều tra. Tuy nhiên, có một số thế lực chống phá chế độ, lợi dụng tình trạng này để kích động dư luận, gây bất an trong nhân dân. Chúng ta chia sẻ, tôn trọng sự bức xúc của người dân mong mỏi sớm tìm ra và công bố nguyên nhân nhưng không thể chấp nhận lợi dụng việc này để chống đối Nhà nước, Nhân dân.
Mọi người cũng nên suy ngẫm một trích đoạn trong bài viết của nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan ngay sau khi xảy ra những vụ tuần hành, tụ tập gây rối vào tháng 5/2014: “Sức mạnh dân tộc bị suy yếu chỉ có lợi cho những người muốn thấy một nước Việt Nam yếu và chia rẽ. Đó là chưa kể một số kẻ mưu toan “đục nước béo cò”, lợi dụng nhiệt huyết của các tầng lớp nhân dân để phục vụ cho những tính toán riêng của họ. Nói tóm lại, tình hình càng phức tạp chúng ta càng cần phải vận dụng nhuần nhuyễn những truyền thống, những bài học lớn đã thu lượm được trong suốt chiều dài lịch sử từ ngày Nhà nước Việt Nam mới ra đời đến nay. Dũng khí cần song hành với mưu lược, nhiệt huyết cần đi đôi với sự tỉnh táo, có trái tim nóng chưa đủ, mà cần có cái đầu lạnh”./.

LỘ RÕ MƯU ĐỒ CHÍNH TRỊ ĐEN TỐI CỦA CÁC PHẦN TỬ PHẢN ĐỘNG


Trong khi toàn Đảng, toàn dân đang nỗ lực khắc phục hậu quả sự cố môi trường biển, thực hiện chi trả đền bù - hỗ trợ nhân dân, định hướng việc làm, phát triển sản xuất thì thời gian gần đây, những kẻ cơ hội đã lợi dụng để tung tin kích động nhân dân, tổ chức các hoạt động gây rối ANTT, phá hoại về kinh tế. Mưu đồ chính trị đen tối của các đối tượng cũng ngày càng lộ rõ.
Đi ngược lại với những nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, các thế lực thù địch, đối tượng phản động, cực đoan đã câu kết, tuyên truyền kích động, chống phá, gây rối ANTT, phá hoại về kinh tế, xúi giục nhân dân phản đối, đi ngược lại quan điểm của Đảng, Nhà nước, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân. Đây là âm mưu chính trị cần phải đấu tranh, lên án, nghiêm trị, nhất là những đối tượng, tổ chức cầm đầu, nhằm bảo vệ tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ và thành quả phát triển kinh tế xã hội của đất nước, địa phương.
Theo số liệu thống kê, kể từ sau sự số môi trường biển đến nay, đã xảy ra hàng chục vụ tuần hành, tụ tập đông người. Hoạt động này diễn ra bài bản, có tổ chức. Từ việc hàng chục người kéo lên Quốc lộ 1A mang theo gậy gộc, lưới, đá để gây rối, đến việc hàng nghìn người tụ tập trước cổng công ty Formosa hay vào trong trụ sở chính quyền huyện đều được chuẩn bị một cách chu đáo, bài bản. Và, khi các cuộc tuần hành diễn ra thì tất cả các hoạt động ấy đều được tung lên mạng xã hội, mang tính kích động, cổ súy, bác bỏ tất cả những nỗ lực của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, cấp ủy, chính quyền địa phương trong việc khắc phục sự cố; bôi nhọ và hạ uy tín của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lãnh đạo địa phương.
Thực tế, qua đấu tranh, các lực lượng chức năng đã vạch trần âm mưu của tổ chức khủng bố Việt Tân, triệt để sử dụng “những con rối” để kích động, tuyên truyền chống phá, đứng sau giật dây tổ chức các tuần hành gây rối ANTT trong thời gian qua. Điều này được thể hiện, một số đối tượng phản động như: Trương Minh Tam, Chu Mạnh Sơn, Bạch Hồng Quyền, Hoàng Đức Bình, Nguyễn Văn Hóa… đã làm thuê, nhận tiền từ các tổ chức phản động để chống phá, đi ngược lại lợi ích của Đảng, Nhà nước (trong đó, Nguyễn Văn Hóa là đối tượng đã bị Cơ quan An ninh điều tra Công an Hà Tĩnh khởi tố và tạm giam).
Tất cả các đối tượng đó đều đến từ các tỉnh khác, thể hiện có sự móc nối, câu kết của một số đối tượng phản động, cực đoan trên địa bàn Hà Tĩnh, tận dụng triệt để cơ hội chống phá Đảng, Nhà nước, chống phá chính quyền, phá hoại thành tựu phát triển kinh tế xã hội, bôi nhọ danh dự, uy tín của lãnh đạo các cấp và lực lượng Công an. Việc các đối tượng này bị đấu tranh phát giác cho thấy hoạt động chống phá, gây rối trên địa bàn lộ rõ âm mưu chính trị đen tối của các thế lực thù địch, sử dụng những “con rối”, những “quân cờ” để hoạt động chống phá, kích động, lôi kéo nhân dân gây mất ổn định tình hình trên địa bàn.
Hơn bao giờ hết, người dân cần nêu cao tinh thần cảnh giác, không nghe theo luận điệu của các đối tượng phản động, cực đoan, tiếp tay cho phần tử chống phá, đi ngược lại quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước và đạo đức lối sống dân tộc. Đảng, Nhà nước luôn đồng hành, chia sẻ với nhân dân và nghiêm trị những tổ chức, cá nhân phản động, gây rối; bảo vệ thành quả cách mạng và khối đại đoàn kết toàn dân. Vẫn biết rằng, sự cố ô nhiễm môi trường biển miền Trung đã để lại bài học đắt giá về công tác quản lý môi trường, nhưng qua đó, Đảng và Nhà nước ta đã có thêm kinh nghiệm về việc nhìn nhận, đánh giá, giải quyết, xử lý những “điểm nóng” về môi trường, không ngừng nỗ lực tìm ra các giải pháp phù hợp, khả thi để vừa đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội mà vẫn bảo đảm giữ gìn, bảo vệ được môi trường trong mọi tình huống.
Với thông điệp không đánh đổi môi trường để phát triển kinh tế, cho thấy ý chí quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân ta đang chung sức, nỗ lực khắc phục hậu quả sự cố ô nhiễm môi trường biển. Những kết quả bước đầu đã đạt được hiệu quả tích cực, là minh chứng rõ ràng, nhất quán về con đường, mục tiêu phát triển bền vững ở Việt Nam. Do vậy, hơn bao giờ hết, sức mạnh đồng sức đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân là nền tảng vững chắc để đấu tranh với các thế lực thù địch, âm mưu chính trị đen tối của tổ chức phản động, xây dựng đất nước, quê hương ngày càng văn minh, giàu đẹp, tất cả vì nhân dân.



PHÒNG CHỐNG CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH”, BẠO LOẠN LẬT ĐỔ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH, BẢO VỆ VỮNG CHẮC TỔ QUỐC VIỆT NAM XHCN


     
     Bản chất của chến lược "Diễn biến hòa bình" là: chống chủ nghĩa xã hội, chống đọc lập dân tộc. Thực chất đây là cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc trong giai đoạn mới.

      Chủ nghĩa đế quốc cho rằng sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là nguy cơ, là hiểm hoạ đối với chúng. Do vậy khi chủ nghĩa xã hội mới được hình thành trên cơ sở lí luận thì chúng đã kiên quyết chống phá chủ nghĩa xã hội, và khi CNXH được thiết lập ở Liên Xô và các nước Đông Âu thì chúng càng điên cuồng chống phá chủ nghĩa xã hội. Nhưng sau nhiều năm chống phá chủ nghĩa xã hội và phong trào cách mạng thế giới chúng đã rút ra bài học là không thể dùng sức mạnh quân sự đơn thuần để chiến thắng chủ nghĩa xã hội mà cần sử dụng các biện pháp tổng lực: Chống phá về kinh tế, chính trị, văn hoá, văn nghệ, quân sự, ngoại giao “diễn biến hoà bình” thì mới có thể chiến thắng chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy từ giữa thế kỷ XX, chiến lược "diễn biến hoà bình" bắt đầu hình thành. Ban đầu “diễn biến hoà bình” chỉ được sử dụng như một biện pháp hỗ trợ cho các chiến lược “ngăn chặn” , “phản ứng linh hoạt”... của chủ nghĩa đế quốc để chống phá chủ nghĩa xã hội và phong trào cách mạng thế giới. Gần đây, "diễn biến hoà bình" đã trở thành chiến lược cơ bản của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động âm mưu lật đổ chế độ chính trị - xã hội các nước xã hội chủ nghĩa. Chiến lược "diễn biến hoà bình" của chủ nghĩa đế quốc đã góp phần quyết định làm sụp đổ Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu.
     Hiện nay chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang ra sức thực hiện “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ chống phá quyết liệt các nước xã hội chủ nghĩa còn lại trong đó Việt Nam là một trọng điểm. Vì vậy chống chiến lược "diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 


Cảnh giác trước mưu đồ lợi dụng "tôn giáo" để kích động, gây rối, phá hoại

           Cùng với vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, các thế lực thù địch đang lợi dụng vấn đề “tôn giáo” để tạo sự chống phá đa diện nhằm vào Đảng và chế độ ta. Mục đích của việc lợi dụng vấn đề này là để kích động, gây rối, phá hoại, gây mất ổn định chính trị-xã hội, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hãy cảnh giác, đấu tranh làm thất bại mưu đồ đen tối đó!

Việt Nam là nước đa tôn giáo. Mặc dù nguồn gốc, đặc điểm và thời điểm hình thành, phát triển của mỗi tôn giáo có khác nhau, nhưng nhìn chung các tôn giáo luôn có tinh thần bao dung, đoàn kết, gắn bó trong đại gia đình các dân tộc, tôn giáo Việt Nam. Cộng đồng các tôn giáo ở Việt Nam luôn đồng hành cùng dân tộc, hòa chung cùng niềm vui và nỗi đau của dân tộc trong những thời khắc lịch sử, góp phần phát triển và làm rạng rỡ nền văn hoá Việt Nam phong phú, đa dạng và đặc sắc. Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các tôn giáo đã đóng góp xứng đáng vào thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và tiếp tục phát huy trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhiều chức sắc tôn giáo, tăng ni, phật tử đã làm tốt việc đạo, việc đời, hướng dẫn tín đồ chấp hành đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, sống “tốt đời, đẹp đạo”, “kính Chúa yêu nước” được ghi nhận và tôn vinh.
Nhận thức đúng vai trò của các tôn giáo và các tín đồ tôn giáo, Đảng và Nhà nước ta luôn có quan điểm, chính sách đúng đắn về vấn đề này và khẳng định: “Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”; trên cơ sở đó, thường xuyên quan tâm, tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hệ thống giáo lý, giáo luật và quy định của pháp luật Việt Nam. Đồng thời, chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật. Chính sách tôn giáo đúng đắn đó đã có tác dụng cổ vũ, động viên đồng bào theo đạo và các chức sắc tôn giáo phấn khởi, chung sức, chung lòng cùng cộng đồng, làm tròn nghĩa vụ, trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc.
Thế nhưng với bản chất ngoan cố, hiếu chiến, thù địch và dã tâm xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, các thế lực thù địch, phản động đang điên cuồng chống phá Đảng, Nhà nước ta thông qua chiến lược “Diễn biến hòa bình” với mọi thủ đoạn tinh vi, thâm độc. Trong đó, lợi dụng vấn đề “tôn giáo” được chúng sử dụng như một vũ khí đặc biệt quan trọng để xuyên tạc, vu khống, kích động, phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm mất ổn định chính trị-xã hội, tiến tới chuyển hóa chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Phương thức hoạt động chủ yếu của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị là kích động tâm lý mặc cảm, tư tưởng chống đối, hậu thuẫn về vật chất, tinh thần đối với những phần tử bất mãn, cực đoan, quá khích trong các tôn giáo; thúc đẩy thành lập các hội đoàn trái pháp luật trong xứ đạo để thách thức, chống phá chính quyền. Cùng với đó, chúng tiến hành các hoạt động chiến tranh tâm lý, phá hoại tư tưởng, gây hoang mang dư luận về sự đối lập hệ tư tưởng giữa “hữu thần” với “vô thần”, giữa thế giới quan tôn giáo với thế giới quan cộng sản hoặc vu cáo, xuyên tạc “Cộng sản diệt đạo”, “Nhà nước đàn áp tôn giáo”; từ đó, kích động mâu thuẫn, tập hợp lực lượng, tổ chức biểu tình, gây rối trật tự, mất ổn định an ninh chính trị, an toàn xã hội trên địa bàn...
Đáng chú ý, thời gian qua, lợi dụng những hạn chế, yếu kém trong quản lý, điều hành xã hội của chính quyền các cấp về vấn đề đầu tư, ô nhiễm môi trường, giải phóng mặt bằng, đền bù giải tỏa, … các phần tử cực đoan trong tôn giáo nói chung, công giáo nói riêng, ra sức “bới lông, tìm vết”, tổ chức các hoạt động vi phạm pháp luật Nhà nước, trái với giáo lý tôn giáo. Mới đây, trên trang mạng tiếng Việt của một hãng truyền thông nước ngoài thiếu thiện chí với Việt Nam tung lên bài viết “Ô nhiễm môi trường đe dọa ổn định ở Việt Nam”, xuyên tạc rằng: “… hầu hết người Việt Nam bất bình với Đảng Cộng sản đã cho phép một công ty nước ngoài xả độc ra biển. Nhiều người dân miền Trung đã tham gia các cuộc biểu tình đòi Formosa và Chính phủ bồi thường quyền lợi thích đáng. Kể cả nhiều người không bị ảnh hưởng vì thảm họa này cũng bày tỏ sự bất bình...”(!),... Thế là ngay lập tức, những kẻ bất đồng chính kiến, những “nhà đấu tranh dân chủ”, một số tổ chức phản động nhân cơ hội này “theo đóm ăn tàn”, “tát nước theo mưa” nhao nhao hô hào, cổ súy “thúc giục mọi người chung tay để đấu tranh với vấn đề Formosa”. Lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta và được sự tiếp tay của các thế lực phản động bên ngoài, những kẻ cực đoan đội lốt tôn giáo kêu gọi, kích động giáo dân tụ tập, biểu tình, tuần hành, gây rối, tấn công người thi hành công vụ, đập phá phương tiện, cản trở hoạt động giao thông, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Khi chính quyền thực thi chức trách theo quyền hạn thì chúng vu cáo cơ quan chức năng “đàn áp, bắt giữ và đánh đập” người tham gia biểu tình; tán phát trên mạng xã hội “Thư ngỏ”, “Bản lên tiếng”, “Kháng thư”,… với nội dung vu cáo chính quyền bao che cho Formosa, “đàn áp, đánh đập” những người đi khiếu kiện đòi quyền lợi, kêu gọi người dân khởi kiện Formosa ra Tòa án hình sự quốc tế, “cùng đứng lên đuổi Formosa khỏi Việt Nam”,...
Với mưu đồ chống phá đến cùng, những kẻ cực đoan đội lốt tôn giáo đẩy mạnh tuyên truyền, kích động “con chiên ngoan đạo” rằng: “Không ngừng duy trì nhiệt huyết và tính liên tục của các cuộc tuần hành, tụ tập đông người phản đối chính quyền và yêu cầu Formosa ra khỏi Việt Nam vào chủ nhật hằng tuần. Các cuộc tuần hành cần tập trung vào một số địa điểm nhạy cảm, đông người, như: Nhà riêng các lãnh đạo địa phương, công sở, khu công nghiệp, … tại Nghệ An, Hà Tĩnh. Lấy vụ việc Formosa làm điểm nhấn để tăng cường khoét sâu mâu thuẫn giữa giáo dân nói riêng và nhân dân nói chung với chính quyền địa phương” và ủng hộ cái gọi là “cuộc chiến” hiện tại của giáo dân. Không những thế, họ còn thay đổi phương thức tụ tập sao cho bảo đảm tính thường xuyên, liên tục và sinh hoạt, hoạt động sản xuất của giáo dân. Mưu đồ của họ là “chia giáo xứ thành nhiều bộ phận theo các họ đạo, thay nhau tụ tập vào các ngày nghỉ, ngày chính quyền tổ chức cấp phát tiền đền bù, khi cần thiết mới huy động toàn xứ đạo tham gia; thay đổi quy luật, cách thức tụ tập tuần hành...
Tiếp tay cho hành động đó, Ủy ban Tự do Tôn giáo quốc tế/BNG (USCIRF) đã công bố tài liệu tổng kết tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam, với những đánh giá thiếu khách quan khi cho rằng: Việt Nam chưa thực sự tôn trọng quyền tự do tôn giáo. Tình trạng xâm phạm tự do tôn giáo vẫn diễn ra, nhiều nơi chính quyền địa phương và lực lượng an ninh thường xuyên sách nhiễu, phân biệt các tổ chức tôn giáo, bắt giữ những người “đấu tranh” cho tự do tín ngưỡng tôn giáo; đề nghị Chính phủ Mỹ cần sớm đưa Việt Nam trở lại danh sách những nước cần quan tâm đặc biệt về tôn giáo (CPC). Cùng với đó, các thành viên của cái gọi là “Đảng Việt Tân”, trú tại Mỹ thông qua các trang mạng tuyên truyền, xuyên tạc rằng: Đến thời điểm hiện tại (ngày 16-3-2017), Chính phủ Việt Nam “mới đền bù thiệt hại được một phần cho ngư dân, số tiền còn lại các cơ quan chức năng của Việt Nam gửi ngân hàng để chia chác kiếm lợi”; đồng thời, yêu cầu Việt Nam “đóng cửa” Công ty Formosa!... Thật nực cười! Chẳng hiểu họ lấy thông tin từ đâu, với tư cách gì mà có những nhận định và đòi hỏi hồ đồ như vậy. Phải chăng đây là hành động “vì dân, vì nước” của các nhà dân chủ, tổ chức lưu vong? Không, hoàn toàn không! Thực chất đó là những luận điệu lạc lõng, hại dân, hại nước, trò “lập lờ đánh lận con đen”, “đổ thêm dầu vào lửa” hòng đánh lừa dư luận, can thiệp vào tình hình tôn giáo ở Việt Nam, nhưng không che mắt được ai. Hành động của họ không vì cuộc sống của đồng bào ngư dân miền Trung mà chỉ là nhằm lợi dụng “vấn đề formosa” để kích động chống Đảng, Nhà nước và chế độ ta!
Chúng ta đều biết, đã gần một năm trôi qua, sự cố ô nhiễm môi trường biển miền Trung do Formosa gây ra là một thảm họa lớn nhất xảy ra tại Việt Nam từ trước đến nay. Để khắc phục hậu quả đó, Đảng, Chính phủ, các ban ngành Trung ương và cấp ủy, chính quyền địa phương đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt bằng các giải pháp đồng bộ nhằm sớm ổn định cuộc sống và lao động của bà con ngư dân các tỉnh miền Trung. Với nỗ lực đó, đại diện Công ty Formosa đã phải công khai nhận trách nhiệm và hứa sẽ không tái phạm; đồng thời, cam kết bồi thường 500 triệu USD (tương đương hơn 11.000 tỷ đồng Việt Nam) để khắc phục sự cố nghiêm trọng này. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định về mức bồi thường thiệt hại cho bà con ngư dân tại 4 tỉnh: Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế bị thiệt hại vì sự cố môi trường biển, theo 7 nhóm đối tượng, gồm: Khai thác hải sản; nuôi trồng thủy sản; sản xuất muối; hoạt động kinh doanh thủy sản ven biển; dịch vụ hậu cần nghề cá; dịch vụ du lịch, thương mại ven biển; thu mua, tạm trữ thủy sản. Các địa phương trong diện được đền bù đã thành lập ban quản lý, điều hành cấp phát cho bà con theo các nhóm đối tượng; Quy chế Dân chủ ở cơ sở được phát huy; những nơi làm chưa đúng được phát hiện và chấn chỉnh kịp thời. Đến nay, hầu hết những người bị thiệt hại đã được đền bù và đều hài lòng, phấn khởi trước sự quan tâm hỗ trợ thỏa đáng của Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp, tạo niềm tin vững chắc để họ tiếp tục yên tâm bám biển, vươn khơi đánh bắt hải sản, cải thiện cuộc sống gia đình, góp phần xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Thực tế là vậy, nhưng các thế lực phản động, phần tử cực đoan trong tôn giáo không những không thừa nhận, mà còn cố tình lờ đi như người không có mắt, hơn thế còn ra sức xuyên tạc, bịa đặt, “bóp méo sự thật”, “đổi trắng thay đen” về những gì đang diễn ra trên mảnh đất này. Thật nực cười, trớ trêu!
Sự chống phá quyết liệt của những kẻ cực đoan trong tôn giáo cùng sự “hà hơi, tiếp sức” của các thế lực thù địch bên ngoài nguy hiểm ở chỗ làm cho một số người “nhẹ dạ cả tin” trong bà con giáo dân lầm tưởng rằng việc làm đó là đi theo “tiếng gọi của Chúa” mang phúc lộc cho các con chiên ngoan đạo để rồi nghe lời xúi giục kích động của họ tham gia tụ tập, biểu tình, gây rối vi phạm pháp luật.
Chúng ta hãy cảnh giác, chủ động và tích cực đấu tranh lật tẩy những mưu đồ đen tối, những kẻ đeo mặt nạ trá hình đội lốt tôn giáo trước ánh sáng công lý và pháp luật. Đó là việc cần làm nhất thiết phải làm của tất cả những người Việt Nam yêu nước chân chính.
XỬ LÍ NGHIÊM MINH NHỮNG KẺ BIỂU TÌNH TRÁI PHÁP LUẬT

Trong những ngày vừa qua trên địa bàn 2 Tỉnh của HÀ TĨNH VÀ NGHỆ AN liên tiếp xẩy ra những cuộc biểu tình đông người, những cuộc biểu tình gây rối làm mất an ninh trật tự, an toàn xã hội xuất phát không hản phải là do sự cố môi trường của công ty POMOSA và số tiền đền bù của các cấp chính quyền không thỏa đáng.
Đây là chiêu bài của bọn phản động trong nước nhai đi nhai lại cứ làm ra cái vẻ yêu nước thương dân, nhưng thực ra ẩn chứa phí sau đó là cả một mưu đồ đen tối chúng kích động một số người dân thiếu hiểu biết về pháp luật, và số bộ phận công giáo đứng lên đòi Nhà nước phải đuổi công ty POMOSA đi, giáo dân một số nơi đã có biểu hiện manh động kéo đến trụ sở chính quyền Huyện đòi yêu sách vô lí, ĐÁNH NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ, kéo dân ra chặn xe trên tuyến quốc lộ 1 A ĐẬP PHÁ XE, TẤN CÔNG BẰNG GẠCH ĐÁ ĐỐI VỚI NGƯỜI ĐI ĐƯỜNG, hành động này được coi là hành vi vô nhân tính coi thường kỉ cương phép nước không thể chấp nhận được bởi sống trong một đất nước có quốc pháp mà lại ngang nhiên làm cái việc như vậy,
MONG CÁC CẤP CHÍNH QUYỀN CỦA 2 TỈNH TRÊN XỬ LÍ THẬT NGHIÊM NHỮNG KẺ CHỐNG ĐỐI GÂY MẤT AN NINH TRẬT TỰ TRÊN, TÁCH BÓC NHỮNG TÊN CẦM ĐẦU PHẢN ĐỘNG XÚI DỤC KÍCH ĐỘNG NHÂN DÂN BIỂU TÌNH ĐEM RA XÉT XỬ LƯU ĐỘNG CÔNG KHAI ĐỂ MỌI NGƯỜI DÂN BIẾT CÁI BỘ MẶT THẬT NÀY CỦA CHÚNG ĐỂ TỪ ĐÓ NHÂN DÂN HIỂU HƠN Ý ĐỒ KÍCH ĐỘNG CỦA BỌN PHẢN ĐỘNG CHỐNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM.
MỘT VẤN ĐỀ NỮA ĐÓ LÀ MỘT SỐ CƠ SỞ HOẠT ĐỘNG TÍN NGƯỠNG TÔN GIÁO CỦA CHA ĐẠO THƯỜNG XUYÊN HAY KÍCH ĐỘNG ĐỒNG BÀÒ TÔN GIÁO CHỐNG CHÍNH QUYỀN HỌ KÍNH CHÚA NHƯNG KHÔNG YÊU NƯỚC CÓ Ý ĐỒ ĐI NGƯỢC LẠI LỢI ÍCH CỦA ĐẢNG NHÂN DÂN TA, CHIA RẼ MỐI ĐOÀN KẾT LƯƠNG GIÁO CŨNG CẦN CHO BẮT KỶ LUẬT NGHIÊM, CẦN THIẾT CHO TRỤC XUẤT KHỎI ĐỊA PHƯƠNG, HOẶC CHO RA NƯỚC NGOÀI, BỞI CHA ĐẠO NÀY KHÔNG LÀM ĐƯỢC GÌ CHO ĐẤT NƯỚC, QUÊ HƯƠNG MÀ CHỈ HAY KÍCH ĐỘNG PHÁ HOẠI NHÂN DÂN KHÔNG THỂ YÊN ỔN LÀM ĂN ĐƯỢC BỞI HAY BỊ GÂY RỐI.

Nhận diện âm mưu, thủ đoạn lợi dụng các vấn đề dân tộc để chống phá cách mạng Việt Nam



         Hoạt động chính của các thế lực thù địch, phản động là tập trung tuyên truyền xuyên tạc, đả kích chính sách, pháp luật về dân tộc của Nhà nước ta; xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, "chèn ép", "phân biệt đối xử", đàn áp người Dân tộc tiểu số (DTTS). Chúng còn triệt để lợi dụng, khai thác những vấn đề phức tạp do lịch sử để lại ở các vùng dân tộc để kích động xuyên tạc sự thực, vu cáo Đảng, Nhà nước ta ngược đãi, phân biệt, đối xử bất bình đẳng với DTTS.

       Lợi dụng khó khăn về đời sống, chênh lệch giàu nghèo giữa người DTTS với người Kinh; khuyết điểm trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo ở vùng đồng bào DTTS, chúng ra sức tuyên truyền xuyên tạc, vu cáo Đảng, Nhà nước ta. Các tổ chức hội nhóm người DTTS lợi dụng các diễn đàn, hội nghị, viết bài vu cáo, xuyên tạc vùng đất của người DTTS và việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, ý đồ là quốc tế hóa vấn đề như "Vương quốc Khmer Krôm", "Vương quốc Chăm", "Nhà nước Mông", "Nhà nước Tin lành Đề-ga" hướng tới ly khai, tự trị, độc lập.
           Trong báo cáo hằng năm, tuy đều thừa nhận Việt Nam có chuyển biến tích cực, nhưng các tổ chức này luôn cố ý đánh giá tiêu cực về tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam; đòi đưa Việt Nam vào diện "những nước vi phạm nhân quyền nghiêm trọng" vì họ cho rằng, Việt Nam "đàn áp tôn giáo trong những vùng DTTS", trấn áp "các chiến sĩ bảo vệ nhân quyền", "còn đàn áp người Thượng biểu tình ở Tây Nguyên".

          Cá nhân, tổ chức DTTS lưu vong với sự hỗ trợ của nước ngoài tiếp tục có nhiều hoạt động "đấu tranh" nhân quyền đối với Việt Nam, tăng cường thực hiện âm mưu quốc tế hóa vấn đề quyền của người bản địa gắn với vấn đề dân chủ, nhân quyền để tạo sức ép từ bên ngoài và kích động bên trong chống đối Nhà nước ta. Chúng tập trung vào các vấn đề về lịch sử, đất đai, những sai sót trong việc thực hiện các chính sách dân tộc, vấn đề bảo tồn văn hóa dân tộc (nhất là vấn đề chữ viết, tôn giáo) và sự khó khăn trong cuộc sống của một bộ phận DTTS để kích động, lôi kéo đồng bào người DTTS, biểu tình, bạo loạn, trốn ra nước ngoài, vu cáo Việt Nam đàn áp đồng bào nhẹ dạ, cả tin, xuyên tạc chính sách dân tộc của Đảng.

              Từ đó, thu hút sự chú ý và tạo sức ép quốc tế từ các quốc gia, tổ chức dân chủ, nhân quyền đối với Việt Nam. Các tổ chức này còn đang tìm cách móc nối, phát triển tổ chức vào trong nước, câu kết, hỗ trợ cho số đối tượng chống đối trong nước bằng cách tuyên truyền phương pháp chống Việt Nam; vận động số nghị sĩ cực đoan trong Hạ viện Mỹ, Nghị viện châu Âu... đệ trình các "Dự luật", "Nghị quyết", "Báo cáo" tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động chống phá Việt Nam và hợp thức hóa sự ủng hộ đối với số chống đối; thu thập thông tin về những sơ hở thiếu sót của ta trong chính sách tôn giáo, dân tộc ở cơ sở để tạo cớ vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền.

            Bọn phản động lưu vong ở nước ngoài đã tổ chức nhiều cuộc biểu tình, "mít tinh" ủng hộ cái gọi là "tiếng nói đấu tranh đòi dân chủ", một số phần tử cơ hội chính trị trong nước liên kết với "đảng cấp tiến xuyên quốc gia" (TRP) đưa tổ chức "Quỹ người Thượng" của Ksor Kok đến vu cáo Việt Nam tại các diễn đàn của Liên hợp quốc, phản đối ta đàn áp người Thượng.

            Đáng chú ý, thời gian qua, những tổ chức DTTS lưu vong sau đây thường xuyên có hoạt động xuyên tạc, bôi nhọ nhân quyền ở Việt Nam như: Bọn phản động người Thái, Mông, Dao lưu vong ở Mỹ, Pháp, hình thành tổ chức "Hội người Mông thế giới"; "Hội văn hóa cổ truyền người Mông"; "Liên hiệp người Dao Mỹ"; "Trung tâm nghiên cứu Thái học"... Bọn phản động lưu vong ở Mỹ lập các tổ chức "Hội người Thượng Đề-ga" (MDA), "Hội những người miền núi" (MFI), "Hội bảo vệ nhân quyền" (MHRO); "Nhà nước Đề-ga độc lập", "Tin lành Đề-ga"... thành phần là những ngụy quân, ngụy quyền của chế độ Sài Gòn cũ, trí thức có tư tưởng cực đoan mà nòng cốt là số FULRO lưu vong.

          Gần đây, các thế lực thù địch và phần tử dân tộc cực đoan, nhất là một bộ phận trong cộng đồng DTTS Việt Nam sống lưu vong ở nước ngoài đang ra sức lợi dụng bản Tuyên ngôn về quyền của người bản địa của Liên hợp quốc 2007 mà Nhà nước ta đã tham gia, ráo riết kích động đồng bào các DTTS trong nước, đứng lên đòi quyền dân tộc tự quyết, lập "Nhà nước Khmer Krôm"; "Nhà nước Đề-ga", "Vương quốc Chămpa", "Vương quốc Mông" nhằm gây mất ổn định chính trị-xã hội, chia rẽ dân tộc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, từng bước tiến tới phá vỡ sự toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước.

        Chúng cố ý đánh đồng "quyền dân tộc tự quyết" là quyền của quốc gia, dân tộc- với tư cách là chủ thể của luật quốc tế với "quyền của người bản địa" là những quyền của các DTTS hoặc nhóm sắc tộc, thường là những quyền về văn hóa-xã hội của một bộ phận dân cư trong lòng một quốc gia-dân tộc. Thực chất, "quyền tự quyết" của dân tộc, sắc tộc trong một quốc gia không được phép vượt ra ngoài khuôn khổ "quyền dân tộc tự quyết", không được xâm phạm quyền của cả quốc gia-dân tộc.

        Có thể khẳng định, các thế lực thù địch, phản động và tôn giáo cực đoan lưu vong ở nước ngoài đang thực hiện âm mưu lợi dụng "quyền dân tộc tự quyết" của người bản địa để hình thành các vùng đất tự trị trong lòng đất nước Việt Nam. Đây là ý đồ thâm độc, nguy hiểm mà chúng đã, đang rất quyết tâm thực hiện từ nhiều năm nay, nhất là với sự ra đời Tuyên ngôn về quyền của người bản địa của Liên hợp quốc 2007, đã tạo cớ để xuyên tạc, lợi dụng.

        Trước tình hình trên, để góp phần đảm bảo an ninh chính trị vùng đồng bào DTTS, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch, phản động và những phần tử cơ hội chính trị cần phải có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị trong việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật về dân tộc của Nhà nước nhằm không ngừng phát triển kinh tế-xã hội, văn hóa, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, đảm bảo quyền bình đẳng của đồng bào DTTS.

         Có chính sách yêu tiên phát triển kinh tế, cơ sở hạ tầng, phát triển văn hoa du lịch, phát huy năng lực của đội ngũ cán bộ cấp xã trong xây dựng đời sống mới cho bà con nhất là dân tộc tiểu số.
         Đồng thời, xây dựng vững chắc khối đại đoàn kết dân tộc, củng cố thế trận an ninh nhân dân và phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc. Lực lượng nòng cốt phải chủ động các biện pháp nghiệp vụ trong công tác phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn, vô hiệu hóa mọi âm mưu, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng vấn đề DTTS chống phá ta về dân chủ, nhân quyền.

Cần nhìn thẳng vào sự thật để không dung túng cái xấu

Vừa qua, sau khi cơ quan chức năng của Việt Nam bắt tạm giam một số người vì có hành vi tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam; lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân; chống người thi hành công vụ và vi phạm thời hạn án treo,... lập tức một số tổ chức và đại diện một số quốc gia lại bất chấp sự thật để lên tiếng bênh vực, đồng thời phê phán Nhà nước Việt Nam và đưa ra các đòi hỏi phi lý!

Đầu năm 2017, cơ quan cảnh sát điều tra của Việt Nam ở một số địa phương đã công bố lệnh khởi tố, tạm giam để phục vụ điều tra đối với: Trần Thị Nga (Hà Nam) vì hành vi “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo quy định tại Điều 88 Bộ luật Hình sự; Nguyễn Văn Oai (Nghệ An) vì có hành vi “Lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” theo quy định tại Điều 258 Bộ luật Hình sự; và Nguyễn Văn Hóa (Hà Tĩnh) vì có hành vi chống người thi hành công vụ, vi phạm thời hạn án treo.
Cũng thời gian này, cơ quan công an quận Phú Nhuận (TP Hồ Chí Minh) ra thông báo hình sự về việc đã bắt Đặng Hữu Nam - người được “làng dân chủ cuội” ca ngợi là “nhà hoạt động nhân quyền nổi tiếng, đấu tranh vì công lý và quyền con người” (!), để điều tra hành vi “trộm cắp tài sản”! Vi-đê-ô clíp sự kiện cho thấy Đặng Hữu Nam tới một cửa hàng tạp hóa ở phường 10 (Phú Nhuận) mua hàng. Lợi dụng chủ cửa hàng sơ hở, người này đã lấy trộm 20 triệu đồng. Chủ cửa hàng nghi ngờ và kiểm tra, phát hiện mất tiền và trình báo công an. Tới trưa ngày 24-1-2017, sau khi điều tra, cơ quan Công an Phú Nhuận đã bắt giữ Đặng Hữu Nam. Trước bằng chứng không thể chối cãi, “nhà hoạt động nhân quyền nổi tiếng, đấu tranh vì công lý và quyền con người” phải nhận tội! Điều khôi hài là sau khi Đặng Hữu Nam bị bắt, một số kẻ lên in-tơ-nét tung hoang tin Đặng Hữu Nam bị “công an gài bẫy”, gán cho người này mưu đồ “phá hoại làng dân chủ”. Thậm chí, Phạm Văn Thành - kẻ được coi là “người phát ngôn” của tổ chức khủng bố “Việt tân” ở Pháp, còn làm một live stream (sử dụng webcam để truyền trực tiếp hình ảnh, âm thanh) cho rằng Đặng Hữu Nam có kinh tế khá giả, có người thân và bạn bè ở nước ngoài chu cấp thì không thiếu thốn gì để phải trộm cắp; rồi sử dụng thuyết âm mưu dựng ra kịch bản Đặng Hữu Nam là “đặc tình”, “lúc yếu lòng có hành động mèo chuột” nên bị cưỡng ép, lợi dụng để chia rẽ, phá hoại “làng dân chủ”! Tuy nhiên rốt cuộc, sau khi một “nhà dân chủ” cho rằng “Những hình ảnh của ca-mê-ra trong cửa hàng này là không thể lầm lẫn: ông Nam đi ra đi vào, lượn lờ, thậm chí còn như để quên túi đồ đã mua của mình để có cớ quay lại. Và cuối cùng, nhân lúc chủ cửa hàng bước ra ngoài, ông Nam nhón tay mở ngăn kéo tiền, rút ra một xấp tiền mà có thông tin cho biết đến 20 triệu đồng, thản nhiên nhét vào túi quần rồi lấy xe “dông” thẳng… Với vụ việc trộm tiền của ông Đặng Hữu Nam, không cần và rất không cần một lời bào chữa” thì ý kiến bao che Đặng Hữu Nam cũng chấm dứt!
Và như thường lệ, sau khi mấy người này bị bắt giữ để phục vụ điều tra, các tổ chức như Theo dõi nhân quyền (HRW), Ủy ban bảo vệ nhà báo (CPJ),... rồi trên trang Facebook của Phái đoàn Liên hiệp châu Âu tại Việt Nam, trong thư điện tử của Đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam gửi Đài tiếng nói Hoa Kỳ (VOA),… lại xuất hiện một số ý kiến gán cho mấy người này danh nghĩa “nhà bảo vệ nhân quyền” ở Việt Nam để biện hộ, bao che, bênh vực, bày tỏ quan ngại sâu sắc và khuyến nghị Nhà nước Việt Nam cần phải thế này, cần phải thế kia! Và khôi hài là khi lên tiếng như vậy, họ chỉ đề cập đến Trần Thị Nga, Nguyễn Văn Oai, Nguyễn Văn Hóa, còn Đặng Hữu Nam thì họ… tảng lờ!
Xét từ lịch sử vấn đề thì việc mỗi khi cơ quan bảo vệ pháp luật của Việt Nam công bố lệnh bắt tạm giam để phục vụ điều tra, sau đó cơ quan thực hiện quyền tư pháp tiến hành xét xử và tuyên án tù một số cá nhân có hành vi vi phạm Điều 88, Điều 79, Điều 258,… Bộ luật Hình sự là lập tức một số tổ chức và đại diện một số quốc gia lại bất chấp sự thật, nhân danh “dân chủ, nhân quyền” lên tiếng bênh vực, đồng thời phê phán Nhà nước Việt Nam rồi đưa ra đòi hỏi phi lý,… là hiện tượng đã lặp đi lặp lại nhiều lần. Đáng nói là lên tiếng như vậy, nhưng dường như họ chưa bao giờ tìm hiểu thấu đáo bản chất các đối tượng được họ gọi là “nhà bảo vệ nhân quyền”. Bởi thiết nghĩ, trước khi lên tiếng bênh vực, HRW, CPJ, RSF (Phóng viên không biên giới), FH (Nhà tự do), Văn phòng Cao ủy nhân quyền LHQ, Ủy ban đối ngoại thuộc Hạ viện Mỹ, Bộ Ngoại giao và Ủy ban tự do tôn giáo quốc tế Mỹ (USCIRF), Ủy ban nhân quyền châu Âu, Đặc ủy nhân quyền Chính phủ CHLB Đức, Phái đoàn Liên hiệp châu Âu tại Việt Nam, Đại sứ quán các nước Mỹ, CHLB Đức,… tại Việt Nam cần tìm hiểu kỹ lưỡng và cẩn trọng. Mà không phải tìm đâu xa, mới đây chính một người mà họ gọi là “nhà bảo vệ nhân quyền” đánh giá: “Đã từ lâu, dư luận râm ran về một số người tự nhận là đấu tranh dân chủ, nhưng thực chất chỉ để “gọi” tài trợ của các nhà hảo tâm chủ yếu từ hải ngoại. Sau khi đạt được một số hành động đấu tranh cho có, những người này ung dung thụ hưởng số tiền được hải ngoại gửi về…”. Nếu lương tri thật sự trong sáng, họ cần có một cái nhìn tổng thể để tự đặt câu hỏi: Sau khi hưởng lượng khoan hồng của Nhà nước Việt Nam để định cư ở nước ngoài, mấy người được họ bênh vực, bảo vệ đã được dư luận người Việt Nam ở nước ngoài đánh giá như thế nào, như một số thí dụ dẫn từ diễn đàn của người Việt Nam ở nước ngoài sau đây:
- Về Bùi Kim Thành: “Không còn giá trị lợi dụng về mặt chính trị nhưng bây giờ bà là diễn viên hài số 1 của phố bolsatv. Những câu nổi tiếng của bà như “luật sư của hàng triệu dân oan”,... trở thành “thương hiệu Bùi Kim Thành”. Bây giờ cứ lên youtube gõ vào từ khóa Bùi Kim Thành sẽ cho ra vô số clip về bà, nhớ đọc những comment bên dưới để xem khán giả bình luận thế nào về người hùng của cộng đồng cờ vàng”! (Bi hài chống cộng của chiến hữu Bùi Kim Thành - youtube.com).
- Về Tạ Phong Tần: “Nhận định chắc chắn của tôi về Tạ Phong Tần là bà đã chết về tinh thần đấu tranh” (Tạ Phong Tần: lại một đào thải tinh thần đấu tranh - bacaytruc.com)!
- Về Cù Huy Hà Vũ: “Có thể nói là Cù Huy Hà Vũ có một đầu óc bất bình thường, nếu không muốn nói là vô trí trong vài vụ ông ta kiện lung tung và những phát biểu bậy… Ông Cù Huy Hà Vũ thường phát ngôn bừa bãi một cách thiếu suy nghĩ, có thể vì sự hiểu biết của ông rất giới hạn, mà có thể vì ông ta ngông cuồng, dựa vào cơ quan truyền thông ở hải ngoại, nên phá rối chính quyền Việt Nam để gây tiếng tăm cá nhân”! (Cù Huy Hà Vũ là người như thế nào - sachhiem.net).
- Về Nguyễn Văn Hải (hay Điếu cày): “Riêng chúng tôi, sau thời gian tìm hiểu, và đặc biệt, qua những bằng chứng mới đây, chúng tôi thực sự tin rằng: Điếu cày, tuy mang danh “tù nhân lương tâm” nhưng thực sự là kẻ vô lương tâm! Tuy mang danh “nhà báo tự do” nhưng thực sự là kẻ đàn áp tự do”! (Điếu cày - “tù nhân lương tâm” là kẻ vô lương tâm - tinparis.net)…
Đó là các tên tuổi mà trong thời gian dài, một số tổ chức và đại diện một số quốc gia thường xuyên lên tiếng ca ngợi hết lời, rồi phê phán Nhà nước Việt Nam, yêu cầu “trả tự do ngay lập tức, không điều kiện”. Trên thực tế, mấy người họ bênh vực, bảo vệ hoàn toàn không có tư cách “nhà bảo vệ nhân quyền”, chỉ là mấy kẻ lợi dụng nhân quyền, dân chủ, nấp dưới chiêu bài tự do ngôn luận,… để chống phá Nhà nước Việt Nam nhằm đạt mục đích cá nhân ích kỷ, tự biến mình thành “con rối” trong tay các thế lực thù địch, thiếu thiện chí với Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam; khi đã đạt được mục đích thì cũng nhanh chóng vứt bỏ cái vỏ “nhà bảo vệ nhân quyền”, lộ rõ hình hài của kẻ trục lợi bằng việc vu khống, vu cáo, bịa đặt về đất nước đã sinh ra và nuôi dưỡng mình.
Trong thế giới văn minh, việc can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác dưới bất kỳ hình thức nào cũng là không thể chấp nhận. Càng không thể chấp nhận việc can thiệp đó dựa trên các bằng chứng bịa đặt, dựa vào các cá nhân không đủ tư cách đại diện cho các giá trị cao quý của nhân loại, như nhân quyền, dân chủ. Chính vì thế, dù một số tổ chức và đại diện một số quốc gia lên tiếng như thế nào thì pháp luật Việt Nam vẫn bảo đảm tính nghiêm minh, người vi phạm pháp luật vẫn phải nhận bản án thích đáng. Thực tế đó không chỉ đúng với Việt Nam, mà đúng đối với mọi quốc gia có chủ quyền, có quan niệm và thái độ nghiêm túc trong thực thi pháp luật nhằm giữ gìn kỷ cương phép nước, bảo đảm sự ổn định và trật tự xã hội, bảo đảm an ninh quốc gia, để phát triển. Cũng chính vì thế, trước khi lên tiếng bảo vệ, bao che một số cá nhân được gán nhãn hiệu “nhà bảo vệ nhân quyền”, bất kỳ tổ chức, cá nhân, hay đại diện quốc gia nào cũng cần nhìn thẳng vào bản chất sự thật để qua đó không dung túng cái xấu, không về hùa với các thế lực đang cố tình ngăn trở sự nghiệp đổi mới của Việt Nam.