Thời gian gần đây, tuy không phải là dịp kỷ niệm ngày
30-4, nhưng câu chuyện về hòa hợp và hòa giải dân tộc lại nóng lên trên mạng xã
hội và một số trang báo hải ngoại. Một lần nữa, mục tiêu cao cả của chủ trương
hòa hợp dân tộc lại bị không ít người bóp méo, xuyên tạc gắn với tư tưởng hận
thù cùng những ý đồ chính trị đen tối…
Mượn chuyện hòa hợp, gây thêm… chia rẽ.
“Cái bẫy hòa hợp, hòa giải dân tộc” là tiêu
đề một bài báo được đăng trên kênh truyền hình SBTN hải ngoại với nội dung
thiếu thiện chí, kích động rằng, cộng sản Việt Nam chỉ mượn chuyện hòa giải cho
những mục tiêu chính trị nhất thời. Cộng sản và dân tộc như nước với lửa, không
thể có hòa hợp dân tộc nếu còn chế độ cộng sản (!).
Trong một chương trình trên Đài Châu Á tự do,
Cù Huy Hà Vũ tiếp tục đưa ra nhiều lập luận vòng vo, lái câu chuyện hòa hợp dân
tộc sang những vấn đề không liên quan, như: Hòa hợp dân tộc không dừng ở hòa
hợp giữa hai bên “thắng cuộc” và thua cuộc sau ngày 30-4-1975 mà còn là hòa hợp
giữa những người bất đồng chính kiến, những nhà dân chủ với chính quyền hiện
nay. Vũ kêu gọi chỉ có thể hòa hợp được nếu chọn chế độ đa nguyên chính trị. Vũ
chỉ trích Đảng Cộng sản “toàn trị” nên chỉ khi nào “chế độ cộng sản sụp đổ,
người Việt mới có hòa hợp hòa giải”.
Cũng chung luận điệu
ấy, kênh truyền hình Người Việt TV hải ngoại nhiều lần đưa quan điểm của cái
gọi là Tập hợp Dân chủ đa nguyên kêu gọi muốn hòa giải thì phải “phục hồi danh
dự cho những người trong chế độ Việt Nam cộng hòa”, phải thừa nhận đó là cuộc
“nội chiến” và phải coi việc xóa bỏ chế độ cộng sản là một “mệnh lệnh của lương
tâm, là tương lai của dân tộc”. Họ cũng kêu gọi Việt Nam nên áp dụng các “mô
hình” hòa giải như ở cuộc nội chiến của nước Mỹ hay việc xóa bỏ bức tường
Berlin…
Những quan
điểm nêu trên, xét cho cùng đều không thể hiện thiện chí hòa hợp, hòa giải dân
tộc mà chỉ thể hiện sự hằn học, kích động hận thù, gây thêm chia rẽ, xuyên tạc,
bóp méo chủ trương nhân văn, đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta.
Chủ trương nhất quán ngày càng lan tỏa
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí
nhân để thay cường bạo”. Hai câu thơ của Nguyễn Trãi đã phần nào đúc kết truyền
thống khoan dung, hòa hiếu của dân tộc ta, ngay cả với kẻ thù xâm lược chứ chưa
nói đến đồng bào lầm lỗi. Ngay sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mới ra
đời, trong khi phải lo đối phó với thù trong, giặc ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã đưa ra quan điểm nhân văn: “Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng
rãi. Năm ngón tay cũng có ngón vắn, ngón dài, nhưng vắn dài đều họp nhau lại
nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế
này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng, đại
độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc, cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng
ái quốc”. Hơn 10 năm sau, Người một lần nữa khẳng định: “Nước Việt Nam là một,
dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không
bao giờ thay đổi”.
Bắt nguồn
từ đạo lý truyền thống của dân tộc và tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương hòa hợp,
hòa giải dân tộc suốt mấy chục năm qua luôn được Đảng, Nhà nước ta quan tâm. Dù
ít nhiều có những thăng trầm, hạn chế nhưng đó luôn là tư tưởng nhất quán và
ngày càng được thực hiện tốt hơn. Ngay cả khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước chưa kết thúc, giữa đất lửa Vĩnh Linh, Quảng Trị, khi nghe câu hỏi: “Sau
khi Việt Nam đánh thắng đế quốc Mỹ, thống nhất đất nước, việc gì là
lớn nhất?”, Tổng Bí thư Lê Duẩn đã trả lời: "Vấn đề lớn nhất sau
chiến tranh cần phải làm, đó là hòa hợp dân tộc!".
Từ năm 2003, Hội nghị Trung ương 7 (khóa IX)
của Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết quan trọng như: Nghị quyết số 23-NQ/TW
(2003) “Về phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh”, Nghị quyết số 24-NQ/TW “Về công tác dân tộc”,
Nghị quyết số 36-NQ/TW (2004) của Bộ Chính trị (khóa IX) “Về công tác đối với
người Việt Nam ở nước ngoài”. Trong Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị đã
khẳng định: “Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành
phần giai cấp; xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn
nhau, cùng hướng tới tương lai. Mọi người Việt Nam, không phân biệt dân tộc,
tôn giáo, nguồn gốc xuất thân, địa vị xã hội, lý do ra nước ngoài, mong muốn
góp phần thực hiện mục tiêu trên đều được tập hợp trong khối đại đoàn kết toàn
dân tộc”.
Sau nhiều đại hội, Đảng ta đều đề ra những
chủ trương nhất quán về đại đoàn kết, hòa hợp dân tộc. Nghị quyết Đại hội của
Đảng một lần nữa khẳng định: “Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái
với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền
thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam
ở trong và ngoài nước”.
Nhìn lại 13 năm thực hiện Nghị quyết số
36-NQ/TW, chúng ta vui mừng nhận thấy, chủ trương đại đoàn kết, hòa hợp dân tộc
ngày càng lan tỏa sâu rộng. Ở trong nước hiện nay, đồng bào thuộc mọi thành
phần xã hội, kể cả những người trong chế độ cũ đều không bị phân biệt đối xử,
bình đẳng trong lao động, kiến tạo cuộc sống. Ngay cả nhiều nhạc sĩ, ca sĩ từng
xác định ở một thái cực khó có thể hòa hợp, như nhạc sĩ Phạm Duy, ca sĩ Khánh
Ly, Chế Linh… gần đây cũng được tạo điều kiện về nước biểu diễn, không hề bị
phân biệt, kỳ thị.
Một vấn đề từng được coi là “nhạy cảm” như
Nghĩa trang Bình An của quân đội Sài Gòn cũ nay cũng được dân sự hóa, mọi người
thăm viếng, chăm sóc mộ phần. Ngày 27-4-2014, một đoàn kiều bào đã được tổ chức
đến viếng Nghĩa trang Liệt sĩ Bình Dương và Nghĩa trang nhân dân Bình An (nghĩa
trang quân đội Biên Hòa thời Việt Nam cộng hòa). Tại đây, một lãnh đạo Bộ Ngoại
giao đã chỉ vào tấm bia mộ cũ mang tên hạ sĩ Hà Hữu Lộc và nói: “Bia mộ vẫn còn
nguyên phiên hiệu, đơn vị… Những ngôi mộ thế này xây từ ngày xưa có ai phá đâu.
Chân lý ở đâu, sự thật ở chỗ nào khi các anh cứ hô hào, kêu gọi chống cộng, nói
rằng cộng sản không làm gì cho nghĩa trang. Nếu đất nước không có đại đoàn kết thì
những ngôi mộ kia có còn những tấm bia nguyên vẹn như vậy không?”.
Với đồng bào ở nước ngoài, Đảng, Nhà nước ta
đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách tạo điều kiện ngày càng thuận lợi hơn
cho họ trên các lĩnh vực: Xuất nhập cảnh, cư trú, hồi hương, quốc tịch, hộ
tịch, về đầu tư kinh doanh; về quyền được mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam… Một
dẫn chứng sinh động ghi nhận nỗ lực của Đảng, Nhà nước ta phải kể đến việc ông
Nguyễn Cao Kỳ, nguyên Phó tổng thống của chính quyền Sài Gòn sau khi về Việt
Nam đã có phát biểu: “Người ta nói trăm nghe không bằng một thấy nên tất nhiên
về nước thì có dịp kiểm chứng lại mọi điều một cách cụ thể, rõ ràng và chi tiết
hơn. Tôi rất mừng là đất nước đổi mới nhiều”; “Tôi sẽ nói về sự tiến triển,
không khí và tình hình của đất nước để cho họ thấy, từ đó thuyết phục những
người chưa hiểu: Đã đến lúc phải hòa hợp, hòa giải giữa anh em với nhau để xây
dựng đất nước chứ ngoái cổ lại nhìn dĩ vãng rồi hận thù, chua chát, cay đắng
thì đâu có được. Nhưng mà chắc chắn là không thể thuyết phục hết được vì vẫn
còn một số người - một bộ phận rất nhỏ - cả đời chỉ nghĩ cho cá nhân họ thôi,
nhiều khi họ phát nói năng lung tung, để ý làm gì. Tôi nghĩ chuyện chính vẫn là
quyền lợi đất nước”. Chứng kiến sự đổi thay của đất nước và những chủ trương,
chính sách về hòa hợp, hòa giải của Đảng và Nhà nước Việt Nam, ông Nguyễn Cao
Kỳ đã công nhận rằng những người cộng sản Việt Nam hiện đang làm rất tốt và làm
tốt hơn các ông.
Hòa hợp không có nghĩa là xóa nhòa lịch sử và đảo ngược chân lý
Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói “bàn
tay còn có ngón vắn ngón dài” và Đảng ta từng chủ trương “tôn trọng những điểm
khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia-dân tộc”, hòa hợp dân tộc
phải trên cơ sở tôn trọng sự khác biệt, không định kiến, phân biệt đối xử nhưng
không có nghĩa là xóa nhòa lịch sử và đảo ngược chân lý. Những vấn đề khác biệt
như ý thức hệ, quan điểm chính trị thì cần sự tôn trọng, mà không thể đòi hòa
hợp theo kiểu “phải công nhận chế độ Sài Gòn”, “phải phục hồi danh dự cho những
người trong chế độ cũ”, “phải xóa bỏ Đảng Cộng sản thì mới có sự hòa hợp”.
Về vấn đề này, nguyên Chủ tịch nước Nguyễn
Minh Triết từng có nhận xét sâu sắc: “Có những người chứng kiến sự hy sinh của
dân tộc quá lớn, họ cứng như thép, không dễ xoay chuyển được... Nếu nhìn vào
những mất mát, hy sinh to lớn, xét về nguyên tắc là không thể nhân nhượng, bỏ
qua được. Nhưng xét về tình dân tộc, nghĩa đồng bào, đã 40 năm rồi, thì trong
quan hệ có thể cởi mở, mềm dẻo, đối xử nhẹ nhàng”.
Ông Nguyễn Cao Kỳ cũng từng khẳng định: “Một
chính quyền độc đảng mang đến sự ổn định và kỷ luật thì cần thiết cho Việt Nam
để ra khỏi sự nghèo khổ… Tôi cho rằng thật là sai lầm khi một số người, đặc
biệt là số người Việt ở Mỹ ngày nay đòi hỏi Việt Nam phải chấp nhận và thực
hiện một nền dân chủ họ đang hưởng ở Mỹ. Quan niệm của tôi là, đó là một sự sai
lầm. Nền dân chủ đó không thích hợp với Việt Nam trong tình thế hiện nay”.
Với những nhận thức nêu trên, có lẽ chúng ta
đã có được mẫu số chung cho câu chuyện đại đoàn kết, hòa hợp dân tộc. Đó chính
là mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, đó là sự ổn định
để phát triển. Và như thế, những quan điểm định kiến, hẹp hòi, kích động thù
hận, khơi sâu thêm chia rẽ như những viên sỏi nhỏ sẽ nhanh chóng chìm trong
biển cả bao la của sự hòa hợp, của tình yêu quê hương đất nước luôn lan tỏa và
đồng cảm trong trái tim mỗi người dân mang dòng máu con Lạc, cháu Hồng!