CÁI ĐƯỢC HƠN CẢ Ở THÔN HOÀNH MỸ ĐỨC HÀ NỘI
ĐÓ LÀ CÁCH  XỬ LÍ NHÂN VĂN CỦA ĐẢNG
Thời gian vừa qua người dân Thôn Hoành, Mỹ Đức, Hà Nội do bức xúc với các cấp chính quyền về vấn đề đất nông nghiệp của Thôn với  đất quốc phòng không được giải quyết kết luận cụ thể mà theo như người dân là “ thỏa đáng  đúng sai” dẫn đến nhân dân của Thôn khiếu kiện nhiều lần, việc này Huyện đã cử nhiều đoàn công tác xuống Thôn, Xã làm việc tuyên truyền, kết hợp giải thích kỹ mốc địa giới để người dân hiểu. Tuy nhiên do bị kích động mạnh của một số kẻ xấu  lợi dụng đã xúi dục khiến người dân đã không làm chủ được hành động dẫn đến không hợp tác mà quay lại chống đối lại chính quyền, dùng  gậy gộc, gạch đá đập phá xe ô tô của chính quyền, tấn công bắt cán bộ, chiến sĩ công an trái pháp luật, thật nguy hại hơn cả người dân ở đây còn áp dụng phương pháp như thời đánh mỹ là  rào làng “chiến đấu”  lập trốt canh gác, khuân vác  các cây gỗ to, thùng phi, gạch đá làm vật cản đổ chặn đường, không cho bất cứ một ai lạ mặt vào làng, cho đài truyền thanh của Xã phát nhiều nội dung đòi yêu sách vượt quá thẩm quyền. Khi sự việc trên xẩy ra Thành phố Hà Nội cũng đã sâu sát, đã chỉ đạo các đoàn của các cấp chính quyền tuyên truyền sâu rộng hơn nữa để nhân dân hiểu rõ bản chất của vấn đề, vậy nhưng không được tiếp thu.
Chỉ khi đích thân chủ tịch Thành Phố Hà Nội trực tiếp về Thôn làm việc sự việc mới được tháo ngòi nổ, người dân nơi đây ẩn trên khuôn mặt mới bớt đi cái hằn học, cái giận dữ táo tợn, buổi làm việc tuy ngắn ngủi nhưng rất thành công, NGƯỜI DÂN ĐÃ NHẬN RA CÁI SAI CỦA MÌNH LÀ DO TRÌNH ĐỘ NHẬN THỨC, CŨNG NHƯ HIỂU BIẾT VỀ PHÁP LUẬT CÓ PHẦN HẠN CHẾ DẪN ĐẾN NHƯ VẬY.

Mong Đảng Nhà nước không truy cứu trách nhiệm hình sự để tạo mọi điều kiện tốt nhất nhân dân làm ăn, vấn đề  đúng sai về đất sau đoàn thanh tra của Thành Phố sẽ có kết luận cụ thể và sẽ thông báo đến mọi người dân, tuy nhiên không thể phép vua thua lệ làng, cần phải chấn chỉnh vạch ra cái sai rõ ràng của người dân, số kẻ xấu đứng sau kích động chia rẽ Đảng với nhân dân phải đưa ra xét sử nghiêm minh trước pháp luật, muốn  ĐẤT NƯỚC  văn minh thì phải lấy thượng tôn pháp luật làm đầu.

ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ - ĐƯỜNG LỐI XUYÊN SUỐT CÁCH MẠNG VIỆT NAM


Như một thông lệ, cứ vào dịp kỷ niệm Ngày chiến thắng 30-4, bọn phản động lưu vong và các thế lực thù địch lại nhao nhao tung ra các luận điệu xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành quả của công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Trong đó, phủ nhận đường lối cách mạng độc lập, tự chủ của Đảng Cộng sản Việt Nam là một trọng tâm mà chúng hướng vào. Đây là một luận điệu hiểm độc, cần kiên quyết đấu tranh bác bỏ.
Họ rêu rao rằng: đường lối kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, thực chất là chiêu bài dựa dẫm bên ngoài của Đảng Cộng sản, nhằm đưa Việt Nam rời khỏi quỹ đạo của nước này, rồi chui vào gông cùm của nước khác, chứ không phải vì độc lập, tư do của dân tộc. Đường lối đó do nước ngoài áp đặt, không có gì là “độc lập, tự chủ”, không xuất phát từ nguyện vọng của nhân dân, như Đảng Cộng sản vẫn tuyên truyền, v.v.
Thật vớ vẩn! Đúng là sự xuyên tạc trắng trợn, sự bịa đặt trơ tráo, xúc phạm thô bạo đối với cuộc đấu tranh đầy hy sinh, gian khổ, nhưng vô cùng oanh liệt và rất đỗi tự hào của dân tộc ta! Các điều vớ vẩn đó tưởng lạ mà không lạ. Đặc biệt đối với những ai hiểu rõ bản chất, nhân cách, tâm địa của những con người này đều không khó nhận thấy rất rõ rằng, đằng sau sự bịa đặt đó là một mưu toan chính trị vô cùng hiểm độc hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta. Từ xuyên tạc họ kích động hạ bệ Đảng Cộng sản Việt Nam, rằng: trước đây Đảng Cộng sản đã không đại diện cho ý chí và nguyện vọng của dân tộc, ngày nay càng không xứng đáng với vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Muốn xây dựng Việt Nam giàu mạnh, thực sự “độc lập, tư do”, nhân dân ta cần đi con đường khác, “con đường không Cộng sản”!? v.v.
Tung ra những luận điệu đó, họ đã cố tình phớt lờ bối cảnh đất nước cũng như khát vọng của dân tộc ta những năm đầu thế kỷ XX. Ai cũng biết, dưới chế độ thực dân, phong kiến, đất nước bị xâm lăng, người dân sống vô cùng cơ cực, lầm than dưới sự áp bức, nô dịch của kẻ thù; bởi vậy, mong muốn lớn nhất của nhân dân ta là đất nước độc lập, nhân dân tự do, được làm chủ vận mệnh của mình. Song, để có điều đó chúng ta không thể ngồi yên chờ đợi hoặc trông mong sự “giúp đỡ” của người khác. Hơn ai hết, nhân dân ta hiểu rõ “đem sức ta mà giải phóng cho ta”, bằng con đường riêng của mình. Đó là đường lối kháng chiến độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của Đảng ta, sự lựa chọn duy nhất đúng của nhân dân ta không chỉ trong thời điểm, tình thế đất nước như ngàn cân treo sợi tóc, trong suốt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, mà còn xuyên suốt sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Thực tiễn lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước đã chứng minh: tinh thần độc lập, tự chủ là nhân tố cốt lõi đưa dân tộc Việt Nam vượt qua mọi thử thách cam go để chiến thắng các thế lực xâm lược, phá tan mọi mưu đồ đồng hóa của ngoại bang,… bảo đảm cho sự trường tồn và phát triển của đất nước.
Tiếp thu truyền thống của dân tộc, nhận rõ tình cảnh của người dân mất nước, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước với khát vọng cháy bỏng: Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi. Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Người soạn thảo đã xác định mục tiêu, phương hướng chiến lược của cách mạng, trong đó nhấn mạnh: phải đánh đổ thực dân, đế quốc, “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”. Đặc biệt, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 5-1941), thống nhất với tư tưởng đó, Đảng ta chỉ rõ: trong lúc này, “nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Với mục tiêu bất di bất dịch là độc lập, tự do của dân tộc và đường lối dựa vào sức mạnh của toàn dân, Đảng đã thức tỉnh, động viên, tập hợp rộng rãi mọi lực lượng yêu nước, không phân biệt đảng phái, giai cấp, tín ngưỡng, nghề nghiệp,… tạo được sức mạnh to lớn để đánh Pháp, đuổi Nhật, làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám lịch sử; khai sinh Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trong kháng chiến chống Pháp, trước một đội quân xâm lược có vũ khí, trang bị mạnh hơn nhiều lần, lại được đế quốc Mỹ tiếp sức, Đảng ta đã lựa chọn con đường dựa vào sức mình là chính; tổ chức, động viên nhân dân nêu cao quyết tâm “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” để giữ vững nền độc lập non trẻ. Đồng thời, phát động toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, trường kỳ kháng chiến; tranh thủ sự giúp đỡ của các nước anh em và quốc tế; giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân tộc và dân chủ, giữa độc lập dân tộc và người cày có ruộng; thực hiện giảm tô, giảm tức, chia lại đất cho nông dân; kêu gọi nhân sỹ, trí thức ở nước ngoài về tham gia kháng chiến, v.v. Nhờ đó, cách mạng đã giải quyết đúng lợi ích của các bộ phận; nâng cao đời sống của nhân dân, nhất là giai cấp nông dân; thu hút nhiều trí thức trình độ cao về nước,… tạo nên sức mạnh to lớn cả về vật chất và tinh thần cho tiền tuyến đánh thắng kẻ thù. Với đường lối đúng đắn của Đảng, tài thao lược của bộ thống soái tối cao, tinh thần dũng cảm của Quân đội và nhân dân, chúng ta đã làm nên những chiến công vang dội: Việt Bắc (1947); Biên Giới (1950),… đặc biệt là chiến thắng Điện Biên Phủ (1954), buộc kẻ thù phải ngồi vào bàn đàm phán và ký Hiệp định Giơ-ne-vơ (1954). Theo Hiệp định, sau hai năm sẽ tổ chức Tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Nhưng với mưu đồ đen tối, đế quốc Mỹ đã nhảy vào miền Nam, tổ chức ra chính quyền bù nhìn, viện trợ kinh tế, quân sự, biến miền Nam thành thuộc địa thực dân kiểu mới, v.v.
Cả nước ta bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong bối cảnh hết sức khó khăn. Bởi, Mỹ là một cường quốc có tiềm lực kinh tế và quân sự hùng hậu, lại có nhiều tham vọng ở khu vực Đông Nam Á. Trong lúc đó, tình hình quốc tế hết sức phức tạp. Song, kiên định mục tiêu, đường lối đã đề ra, Đảng ta khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là đấu tranh vũ trang, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Để đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, cả nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam; phát huy cao độ sức mạnh của tiền tuyến lớn và hậu phương lớn, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, v.v.
Đánh giá đúng tình hình cách mạng miền Nam, Đảng ta xác định phải tiến hành đường lối chiến tranh nhân dân; đồng thời, vạch ra phương thức, phương châm, phương pháp cách mạng, nghệ thuật tập hợp quần chúng đúng đắn, với tinh thần: “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, “xe chưa qua nhà không tiếc”, v.v. Thực tiễn cách mạng ở miền Nam từ phong trào Đồng Khởi đến đánh thắng các chiến lược: “chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh” cũng như Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đã chứng minh tính đúng đắn của phương thức kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang; phương châm “hai chân, ba mũi, ba vùng” và sự kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự, binh vận và đấu tranh ngoại giao. Cùng với tiến hành chiến tranh toàn dân, toàn diện, buộc địch phải phân tán lực lượng đối phó, chúng ta tập trung sức mạnh của các đơn vị chủ lực với sự nổi dậy của nhân dân vùng tạm chiếm để đánh bại các cuộc tiến công, phản công của địch.
Sát cánh cùng đồng bào miền Nam thành đồng, bất khuất, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân miền Bắc đã vượt qua nhiều hy sinh, gian khổ; chung sức, chung lòng vừa chiến đấu vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội với tinh thần “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, “mỗi người làm việc bằng hai vì đồng bào miền Nam ruột thịt”, v.v. Khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc, hưởng ứng lời kêu gọi: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Bác Hồ, quân và dân ta đã anh dũng chiến đấu (bắn rơi 3.969 máy bay, trong đó có 61 máy bay B.52; bắn chìm 168 tàu chiến; bắt sống nhiều phi công), làm nên chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không”. Chiến thắng đó đã góp phần đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải ký kết Hiệp định Pa-ri và rút quân về nước, tạo điều kiện để chúng ta chuẩn bị mọi mặt cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc thắng lợi, đất nước độc lập, thống nhất, mở ra một thời kỳ mới để nhân dân ta xây dựng đất nước giàu mạnh, nhân dân ấm no, hạnh phúc. Đó là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố, trong đó nhân tố quyết định là đường lối độc lập, tự chủ, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại của Đảng ta.
Thế nhưng, các thế lực thù địch với bản chất hiếu chiến xâm lược không từ bỏ dã tâm chống phá cách mạng Việt Nam. Chúng tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; bao vây, cấm vận về kinh tế, cô lập về ngoại giao,... hòng làm cho đất nước ta kiệt quệ, đi đến sụp đổ. Nhưng, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, Nhân dân ta luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đoàn kết, ra sức khắc phục khó khăn, tiến hành công cuộc đổi mới ngày càng giành những thắng lợi to lớn. Thành tựu nổi bật và cơ bản nhất là chúng ta đã giữ vững được độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; từng bước phá thế bao vây cô lập của kẻ thù, ngăn chặn và đẩy lùi mọi mưu đồ chống phá của các thế lực thù địch, tạo môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng đất nước, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Trước những diễn biến hết sức phức tạp trên Biển Đông, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã kiên quyết và kiên trì đấu tranh trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế để giữ vững chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc, v.v. Nhờ đó, thế và lực, sức mạnh tổng hợp, uy tín quốc tế của Việt Nam không ngừng được nâng cao; lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ càng được tăng cường.
Rõ ràng, những luận điệu xuyên tạc mục tiêu độc lập, tự do và đường lối độc lập, tự chủ của Đảng trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay là vô căn cứ và hết sức lố bịch. Trái với luận điệu kệch cỡm của các “nhà dân chủ” cho rằng: đường lối của Đảng do nước ngoài áp đặt. Thực tiễn 87 năm qua chứng minh: đường lối của Đảng ta bắt nguồn từ truyền thống văn hóa của dân tộc, xuất phát từ nhu cầu lịch sử của đất nước, lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, nên tập hợp được tất cả sức mạnh của đồng bào trong nước, kiều bào nước ngoài, cũng như sự ủng hộ của bạn bè quốc tế.

 Thắng lợi của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đưa đất nước thoát khỏi ách xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, trở thành một quốc gia độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,… ngày càng có vai trò và uy tín cao trên trường quốc tế. Thắng lợi đó, cùng với những thành tựu của 30 năm đổi mới vừa qua, càng làm cho nhân dân ta tin tưởng và quyết tâm theo Đảng, ra sức phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đó là minh chứng thuyết phục nhất, sự bác bỏ hùng hồn nhất đối với các luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Xuân Lộc - Trận chiến cuối cùng của quân đội VNCH

       Đầu tháng 4 năm 1975, QK1 và QK2 đã lọt vào tay CSBV, hai phòng tuyến chính của VNCH phía đông bắc Sài Gòn bấy giờ là Phan Rang và Xuân Lộc thuộc Long Khánh. Từ 25-3-1975 Bộ chính trị CSBV quyết định đốt giai đoạn cuộc tổng tấn công, tập trung các lực lượng binh khí kỹ thuật đánh chiếm Sài Gòn trước mùa mưa.
     Xuân Lộc cách Sài Gòn khoảng 80 cây số, cửa ngõ của Thủ đô, phòng tuyến Xuân Lộc rất quan trọng vì nó nó là vị trí yết hầu, CSBV từ miền Trung nếu chiếm được Xuân Lộc sẽ đổ xuống Sài Gòn. Từ đầu tháng 4-1975 sư đoàn 18 BB, các đơn vị thiết giáp, Biệt động quân, pháo binh tăng cường đã được đưa lên trấn đóng trên một tuyến dài 20 km. CSBV mở đầu chiến dịch Hồ chí Minh bằng cuộc tấn công Xuân Lộc từ ngày 9-4, trận chiến đẫm máu kéo dài 11 ngày, đây là một chiến thắng cuối cùng của QĐVNCH trước ngày đất nước lọt vào tay CS. Chiến tuyến Xuân Lộc được thiết lập dọc theo Quốc lộ 1 dài dộ hơn 10 Km về phía tây và 8 km về phía đông. Chiến đoàn 52 (gồm trung đoàn 52 thuộc sư đoàn 18 + tăng phái)) và Thiết đoàn xe tăng giữ mặt tây tại ngã ba Dầu Giây trên đường đi Đà Lạt, Trung đoàn 48 (sư đoàn 18 BB) và Liên đoàn 7 Biệt động quân phòng thủ mặt đông từ núi Chứa Chan, Giá Rai đến Xuân lộc. Thị xã Xuân Lộc do Trung đoàn 43 (sư đoàn 18 BB) và các tiểu đoàn địa phương quân Long Khánh bảo vệ. Tướng Lê Minh Đảo Tư lệnh sư đoàn đóng tại Tân Phong phía nam Xuân Lộc 3 cây số . CSBV đưa vào mặt trận sư đoàn 6 (2300 người), sư đoàn 7(4100 người), sư đoàn 341, sư đoàn 1 (3400 người), sư đoàn 325 (5000 người), Trung đoàn 95B (1200 người), tổng cộng khoảng 1700 người.
     Biết trước địch sẽ tấn công Xuân Lộc Long Khánh, Tướng Đảo đã chuẩn bị trận địa chờ địch, ông khuyến khích dân chúng di tản, cho di chuyển các trại gia binh, bệnh viện, thương binh cùng các cơ sở chuyên môn về hậu cứ, ông cũng cho sửa sang các phòng tuyến, đào giao thông hào chuẩn bị chiến đấu . Theo Hồ Đinh (Sư Đoàn 18 Bộ Binh Và Những Ngày Tử Chiến Tại Xuân Lộc) truyền tin của ta tại chiến trường rất giỏi, đã bắt và giải mã được tần số VC, biết trước lệnh tấn công của địch nên đã tránh được nhiều tổn thất cho phía VNCH.
    Năm giờ sáng 9-4 VC pháo kích thị xã Xuân Lộc trong 2 tiếng đồng hồ khoảng 3000 quả đại bác giết hại vô số thường dân, tại nhà thờ thị xã dân chúng đang hành lễ bị trúng đạn pháo kích chết nhiều. Pháo vừa ngưng tức thì bộ binh, xe tăng VC ào ạt tiến vào, quân trú phòng chống trả ác liệt, hơn 10 xe tăng VC bị bắn hạ sau 6 tiếng đồng hồ giao tranh. Hai tiểu đoàn đặc công VC bị thiệt hại nặng , hơn 100 tên bỏ xác tại trận, VC rút lui giữa ban ngày bị máy bay, pháo binh ta truy kích dữ dội. Địa phương quân Long Khánh phòng thủ mặt bắc chiến đấu rất dũng cảm.
    Trưa hôm ấy VC chém vè, sáng hôm sau 10-4 sư đoàn 6, sư đoàn 7 VC tấn công tuyến phòng thủ Long Khánh , hai trung đoàn VC giao tranh ác liệt với chiến đoàn 52, một số tiền đồn các cao điển trên Quốc lộ 20 bị mất, tuyến phòng thủ của chiến đoàn nay thu ngắn lại còn chừng 10 km.
Đêm 11-4 tiểu đoàn 2 của chiến đoàn đã phục kích đánh tan một tiểu đoàn VC đang di chuyển trên đường từ đồn điền Bình Lộc về Xuân Lộc. Một đoàn xe 30 chiếc chở đầy bộ đội, đạn dược, lương thực, quân dụng.. bị lọt ổ phúc kích của tiểu đoàn 2/52 , hàng ngũ địch bị rối loạn vì chúng bị hoàn toàn bất ngờ. VC bị bắn chết như rạ ngay khi còn trên xe cũng như nhẩy xuống đất, cả tiểu đoàn bị chận đánh tơi bời, hằng trăm tên bỏ xác tại trận. Trên phòng tuyến chính từ 10-4 những trận đánh cấp trung đoàn đã diễn ra tại phía bắc, phía đông và đông nam Long Khánh.
    Sau trận đánh mở đầu thất bại, hôm sau 10-4 CSBV đem 2 sư đoàn 6, 7 cùng với xe tăng đại bác tiến đánh toà hành chánh và tiểu khu, sân bay thị xã và tây bắc Long Khánh. Trưa 10-4 VC di chuyển trên tỉnh lộ từ Định Quán xuống bị máy bay trinh sát của ta phát hiện, không quân VNCH liền được gọi tới oanh kích gây nhiều thiệt hại nặng cho địch, hàng chục xe tăng, hằng trăm VC bị tiêu diệt. Hai trung đoàn VC từ hướng bắc Long Khánh ồ ạt tấn công vị trí phòng thủ của BĐQ và trung đoàn 48 BB nhưng bị thảm bại, hàng trăm tên bỏ xác tại trận.
    Sang ngày thứ tư 12-4 mặt trận Long Khánh được Mï tăng cường lữ đoàn dù và một tiểu đoàn pháo, cuộc đổ quân bằng trực thăng vận vĩ đại đã được sư đoàn 3 và 4 không quân thực hiện đúng thời gian qui định. Lữ đoàn Dù đã giao tranh dữ dội với Cộng quân để yểm trợ cho các lực lượng trú phòng. Hai tiểu đoàn VC đã đột nhập thị xã chiếm được một số cơ sở hành chánh quân sự, ĐPQ và trung đoàn 43 đã dũng cảm đẩy lui địch, nhờ sự chiến đấu anh dũng của các đơn vị trú phòng Xuân Lộc vẫn còn đứng vững.
    Tỉnh trưởng Long Khánh Đại tá Phạm Văn Phúc, sĩ quan BĐQ mới nhậm chức từ cuối tháng 3-1975, kiên quyết giữ vững vị trí chiến đấu bảo vệ Long Khánh, ông đã cho lệnh bắn bỏ những kẻ đào ngũ khiến cho tinh thần binh sĩ được nâng cao, ai nấy chiến đấu anh dũng cho tới khi Bộ chỉ huy tiểu khu phải rời về phía Nam Xuân Lộc.
    Tướng Smith đã tường trình về Mỹ, ông đã ghi nhận không quân VNCH đã chứng tỏ ý chí kiên cường gây thiệt hại nhiều cho đối phương . Trận giao tranh nhằm kiểm soát Xuân Lộc, VC quyết tâm tiêu diệt các đơn vị phòng thủ VNCH để lấy cửa ngõ vào Biên Hoà và Sài Gòn bằng bất cứ giá nào. 
    Sáng ngày 13-4 QĐVNCH vẫn giữ vững vị trí, nhờ sự yểm trợ chính xác của không quân, lực lượng phòng thủ đã gây thiệt hại nặng nề cho VC. Sang ngày 14-4, 15-4 chiến đoàn 52 và ĐPQ đã bị thiệt hại và mệt mỏi vì giao tranh liên tục với quân số đông đảo của CSBV . Tại Ngã ba Dầu Giây trận chiến diễn ra vô cùng ác liệt, BV tung thêm nhiều sư đoàn có xe tăng yểm trợ cùng với pháo binh để chọc thủng phòng tuyến của ta tại ngã ba Dầu Giây do chiến đoàn 52 bảo vệ. Trong trận đánh cuối cùng này các chiến sĩ ta phải đương đầu với một lực lượng địch đông gấp mười lần cùng với sự yểm trợ dữ dội của pháo binh và xe tăng T-54.
    Trận chiến rất ác liệt tàn khốc ngay từ lúc mới giao tranh, Những đợt xung phong biển người của VC đã tràn ngập các vị trí chiến đấu của VNCH, địch chọc thủng phòng tuyến và chia cắt các lực lượng ta, 4 xe tăng M-48 của ta bị trúng pháo kích VC, trời tối nên máy bay cũng không yểm trợ được. Chiến đoàn 52 gồm một trung đoàn thuộc sư đoàn 18 BB và các lực lượng tăng phái đã bị CSBV đánh tan đêm 15-4, chỉ có hai đại đội thoát được. Phòng tuyến của chiến đoàn tại ngã ba Dầu Giây Long Khánh bị vỡ đêm 15-4-1975, pháo binh, thiết giáp của ta tại đây bị tiêu hủy hết. VC tác chiến không giỏi nhưng chúng rất đông, bộ đội phần nhiều là những thanh niên còn trẻ dưới 20 chỉ mới được huấn luyện sơ sài, không có kinh nghiệm chiến trường gì mấy.
    Tướng Toàn xin lệnh Bộ TTM cho ném bom Daisy Cutter, hồi đó còn gọi là bom CBU để ngăn sức tiến của Cộng quân. Hôm sau 16-4 vào lúc 11 giờ sáng hai trái bom khổng đã được thả xuống vị trí đóng quân của BV cùng với một đoàn xe dài đầy những xe tăng đại bác trên quốc lộ 20 từ Định Quán trở xuống. Có vào khoảng 2 sư đoàn, 10 ngàn cán binh VC bị tiêu diệt, hằng trăm thiết giáp, đại bác bị phá huỷ, CSBV bị chận đứng tại Dầu Giây.
     Ngày 20-4 Tướng Toàn bay vào Long Khánh gặp Tướng Đảo bàn kế hoạch rút quân bỏ Xuân Lộc. Sau này tại hải ngoại Tướng Toàn đã trả lới Phạm Huấn trong một cuộc phỏng vấn về chiến trường Long Khánh. Nguyễn Văn Toàn cho biết sau khi phòng tuyến của chiến đoàn 52 bị CS tràn ngập đêm 15-4, ông đã xin lệnh Bô TTM cho ném bom Daisy Cutter vì VC tập trung rất đông đảo trong vùng này, BTTM đã chấp thuận đề nghị và cho thi hành ngay hôm sau.
     “Hỏi: Trung Tướng có được báo cáo về kết quả sau khi những trái bom này được thả?
Đáp: Vâng, khoảng hai sư đoàn Cộng sản bị loại khỏi vòng chiến (hơn 10 ngàn quân) và rất nhiều chiến xa T-54, đại pháo của Bắc Việt bị hủy diệt khi đang di chuyển trên Quốc lộ 20, từ Định Quán xuống ngã ba Dầu Giây. Tôi đã đề nghị thả 5 bom ’Daisy Cutter’ nữa xuống nhiều vùng tập trung quân khác của Cộng Sản Bắc Việt trên chiến trường Quân Đoàn III sau khi biết chắc rằng những pháo đài bay B- 52 của Mỹ không còn trở lại ViệtNam, và để quân ta có thể bung ra phản công, tiêu diệt địch, nhưng chỉ có 2 quả được thả xuống phía Bắc Dầy Giây mà thôi.
Đáp: Tôi được thông báo cho biết loại bom ’Daisy Cutter’ tùy thuộc vào đầu nổ, và các chuyên viên của Mỹ. Mình có bom, nhưng không có đầu nổ và chuyên viên xử dụng cũng như không!
     Mặc dù sáng 20-4 lữ đoàn Dù và thiết giáp đụng dộ VC giữa ban ngày, ta tiêu diệt gần 2 trung đoàn VC nhưng theo Tướng Toàn phòng tuyến này không thể giữ được nữa, VC bị thiệt hại nặng nhưng chúng vẫn còn 4 sư đoàn chính qui, nếu còn cố giữ Dầu giây thì sư đoàn 18 BB và lữ đoàn Dù sẽ bị tiêu diệt hết. CS đang chuẩn bị kế hoạch 2 tiến về Sài Gòn với 5 sư đoàn ở mặt trận phía đông sẽ tấn công thẳng vào Bộ Tư Lệnh Quân đoàn 3 ở Biên Hoà, trường thiết giáp, trường bộ binh Long Thành, 3 sư đoàn BV nữa ở tây bắc Sài gòn sẽ chiếm Tây Ninh nên ông đã cho lệnh bỏ Long Khánh về lập phòng tuyến mới phòng thủ Biên Hoà. Rút bỏ Long Khánh là một quyết định đúng vì BTTM và BTL Quân đoàn 3 tránh thiệt hại vô ích cho sư đoàn 18 BB. Vị trí Xuân Lộc lúc bắt đầu trận chiến là cửa ngõ phía đông bắc để vào Sài Gòn. Quân đoàn 2 CSBV sau khi phá vỡ tuyến phòng thủ Phan Rang đang theo Quốc lộ 1 tiến về Sài Gòn nên vị trí của Xuân Lộc bây giờ không còn quan trọng nữa.
       Sư đoàn 18 BB và các lực lượng tăng phái, ĐPQ đã rút lui về về phía Nam theo liên tỉnh lộ 2 nối liền Long khánh và Phước Tuy rất có trật tự, an toàn, ít thiệt hại. Rút kinh nghiêm ở thất bại của cuộc triệt thoái Cao nguyên, gia đình binh sĩ đã được di tản từ trước trận đánh nên đã không sẩy ra tình trạng náo loạn như tại miền Trung tháng 3-1975. Trung đoàn 48 rút lui trước về đến Long Giao đặt pháo tại đây để yểm trợ tổng quát cho cuộc lui binh , tiếp theo là các đơn vị yểm trợ như công binh truyền tin, quân y… Bộ chỉ huy Tiểu khu Long Khánh, Trung đoàn 43, lữ đoàn Dù đi sau cùng bị thiệt hại nặng.
    “ Tóm lại cuộc lui quân coi như thành công , nhờ có tổ chức, kế hoạch và trên hết, chính Tướng Đảo cũng như tất cả các đơn vị trưởng từ Tỉnh Trưởng Phạm Văn Phúc, Đại Tá Đỉnh , Lữ đoàn trưởng Dù..đều đi bộ và tác chiến như lính. Thử hỏi sao không đạt được chiến thắng?Sư đoàn 18 BB bị thiệt  hại khoảng 30% quân số, chiến đoàn 52 bị thiệt hại tới 60%, ĐPQ, nghĩa quân bị thiệt hại nhiều nhất, hơn 5000 quân CSBV bị tử thương cùng 37 chiến xa bị bắn cháy, chưa kể hai sư đoàn đã bị bom Daisy Cutter tiêu diệt.
     Nói về tinh thần chiến đấu của sư đoàn 18 BB tại Long Khánh tháng 4-1975 Ông Dawson, trưởng nhóm phóng viên hãng thông tấn UPI viết: “…Trận đánh kéo dài một ngày nữa, rồi lại một ngày nữa, và cứ thế. Tướng Đảo và binh sĩ của ông đã đánh một trận đánh mà ít người dám nghĩ rằng họ có thể làm được. CS tung vào Xuân Lộc một sư đoàn nữa. Sư đoàn 18 vẫn tiếp tục chống cự. Ngày 10 tháng 4. Cộng quân lại đánh vào giữa thị xã và lại bị đẩy lui. Ngày 12, quân CSBV vẫn không tiến thêm được chút nào. Hai trung đoàn của quân đội nam Việt Nam không những đã giữ vững được vị trí mà còn phản công dữ dội hơn… Thêm 2000 đạn nữa rót vào Xuân Lộc, xé nát mọi vật. Sư đoàn 18 vẫn đứng vững. Tướng Đảo ở lại bên các binh sĩ của ông và tiếp tục chiến đấu”.
     Thượng tuần tháng 4-1975, đài phát thanh và truyền hình tại Sài Gòn ca ngợi chiến thắng Long An (Thủ Thừa) “Chiến thắng Long An và Long Khánh là những nhát búa đập lên đầu bọn chủ bại”, mục đích nâng cao tinh thần quân dân. Lê Đức Thọ cũng phải công nhận thất bại tại trận Thủ Thừa, Long An và Xuân Lộc, Long Khánh.
     “Sau hai lần B2 xin quân thì tôi vào chiến trường gặp lúc hội nghị miền vừa kết thúc. Tôi được nghe anh em báo cáo lại là đã bàn về việc đánh Xuân Lộc. Lúc ấy tôi cũng được biết trước đó, theo chủ trương của Miền, anh em đã đánh Thủ Thừa, đường số 4, nhưng bị thiệt hại nặng nề, không giải quyết được chiến trường ? Ngoài ra, còn có bọn địch ngoan cố chống cự như trận đánh vào Đồng Dù (Củ Chi), Nước Trong (Trường Thủ Đức, Trường Thiết Giáp) là các trận đánh ác liệt tại miền Đông, thương vong của ta không phải ít. Do đó tôi mới có ý toan bàn với các đồng chí ngưng đánh Xuân Lộc lại. Nhưng nghe anh Dũng nói, tôi cũng nghĩ có thể mình mới vào chưa rõ hết tình hình; cứ để các đồng chí đánh vậy. Kết cục là anh em ta không đánh được Xưân Lộc, bị thương vong nặng phải rút ra”. CTVNTT, trang 791, 792
    Darcourt, sử gia người Pháp nhận xét: “Trong hai ngày pháo binh CSBV tác xạ hơn 8000 trái đạn vào các vị trí của sư đoàn 18. Liên lạc vô tuyến với Bộ Chỉ Huy của Tướng Đảo bị gián đoạn rồi lại được tái lập. Quân của ông bám sát trận địa, chiến đấu cực kỳ dũng mãnh và nhất định không lùi, mặc cho những trận mưa lửa cứ trút lên đầu họ” CTVNTT.
   Các nhà báo, nhà quân sự ngoại quốc không ngớt lời ca ngợi chiến thắng Long Khánh như dưới đây: “Với ba sư đoàn 7, 341 và 16, Văn Tiến Dũng tin tưởng sẽ chiếm được Xuân Lộc một cách dễ dàng. Ông đã lầm, sư đoàn 18 chưa bao giờ được xem là một sư đoàn thiện chiến của miền Nam VN. Trái lại, có lần sư đoàn này còn được xem là sư đoàn tệ nhất. Thế mà trong những ngày cuối cùng của chiến tranh VN, sư đoàn này đã chiến đấu một cách dũng cảm. Không những họ đã giữ vững được trận địa mà lại còn phản công mỗi ngày” (D,Warner, người Úc) CTVNTT.
    Tướng Smith, trưởng phòng DAO Mỹ tại Sài Gòn đã phúc trình cho TMT lục quân: “Chúng tôi đã tạo được một chiến thắng. Tại chiến trường Long Khánh, rõ ràng QĐVNCH đã chứng tỏ sự quyết tâm và anh dũng chống lại địch quân đông hơn gấp nhiều lần. Mặc dù chiến trường chỉ mới qua giai đoạn một, chúng tôi có thể nói không ngần ngại rằng QĐVNCH đã thắng vòng đầu”
    Văn Tiến Dũng, người chỉ huy chiến dịch Hồ chí Minh đã phải công nhận tinh thần chiến đấu dũng mãnh của QĐVNCH tại mặt trận Long Khánh như sau: “Các sư đoàn 7, sư đoàn 6 và sư đoàn 341 của ta đã phải tổ chức tiến công nhiều lần vào thị xã, đánh đi đánh lại diệt từng mục tiêu và phải nhiều lần đẩy lùi các cuộc tập kích của địch. Trung đoàn 43 địch bị tổn thất nặng. Pháo binh chiến dịch và pháo binh đi cùng các sư đoàn của ta đã phải dùng thêm cơ số đạn. Xe tăng, xe bọc thép của ta một số bị hỏng, một số phải trở về vị trí xuất phát tiến công để bổ sung xăng dầu, đạn dược.
   Kế hoạch tiến công Xuân Lộc của Quân đoàn 4 lúc đầu chưa tính hết được sự phát triển phức tạp của tình hình, chưa đánh giá hết tính chất ngoan cố của địch. Tính chất giằng co ác liệt qua trận đánh này không phải trong phạm vi của Xuân Lộc-Long Khánh nữa rồi… Đại Thắng Mùa Xuân trang 174. Sau khi QK1 và QK 2 bị thảm bại trên đường triệt thoái, Quân đội VNCH tại QK 3 ai nấy đều rất xúc động tủi nhục cho danh dự quân đội và quyết tâm phản công lại các lực luợng CSBV tới cùng. Tại Long Khánh từ ông Tướng Tư lệnh cho tới người lính trơn, từ bộ binh chính qui cho tới Địa phương quân, nghĩa quân, ai nấy đều chiến đấu rất kỷ luật can trường. Theo Phạm Huấn Đại Tá Phạm Văn Phúc Tỉnh trưởng Long Khánh đã tử trận cùng hằng nghìn chiến sĩ khác, nhưng theo Hồ Đinh ông Phúc đã bị VC bắt sống tại trận.
    Mặc dù tinh thần chiến đấu của quân ta còn rất cao, các đơn vị vẫn còn giữ vũng Xuân Lộc nhưng Tướng Toàn cũng phải cho lệnh di tản về phía Nam vì biết không thể nào chống lại lực lượng đông đảo của địch. CSBV hối hả đưa đại binh vào chiến dịch đánh chiếm Sài Gòn trước khi mùa mưa tới, chúng dốc hết cả túi tiền đánh xả láng canh bạc cuối cùng , sẵn sàng đẩy hằng hà sa số thanh niên vào chỗ chết để nuốt trọn miền Nam.
     Toàn bộ 5 quân đoàn 1, 2, 3, 4, 232 của CSBV cùng với trên 10 trung đoàn độc lập, tổng cộng gần 20 sư đoàn BB, 280 ngàn người, với sự yểm trợ của hơn 20 trung đoàn xe tăng, pháo binh, phòng không. Đạn dược, tiếp liệu của địch dồi dào, trong khi ấy chủ lực quân toàn quốc và vũ khí tối tân của VNCH như xe tăng, đại bác đã bị thiệt hại tới 40% do hậu quả của hai cuộc triệt thoái thất bại miền Trung, đạn dược tiếp liệu của ta thiếu thốn.
    Chiến thắng Long Khánh được coi như chiến thắng cuối cùng của miền Nam trước ngày mất nước, mặc dù có gây được tiếng vang và lấy lại được uy thế cho QĐVNCH nhưng cũng không cứu vãn nổi tình thế đã quá bi đát. Quyết định của Tướng Toàn hợp lý vì ông không muốn để cho sư đoàn 18 và các đơn vị tăng phái thiệt hại vô ích.
     Bom Daisy Cutter vào khoảng tháng 4-1975 thường được dân Sài Gòn gọi là bom CBU, ngày 21-4-1975 chúng tôi được nghe một ông dân biểu, có chức vụ lớn tại hạ viện cho biết: “Mặt trận cuối cùng sẽ là mặt trận Biên Hoà, CSBV sẽ mất 10 sư đoàn, mình đã chuẩn bị bom CBU đầy đủ cả rồi chỉ chờ nó đến”.
Ông ấy cũng cho biết tin này do một ông Tướng nói lại. Có thể do bọn “xịa” tung ra để ru ngủ đồng bào ngõ hầu chúng dễ bề cuốn gói ra đi êm thắm. Theo lời Tướng Toàn như đã nêu trên, người Mỹ chỉ cho ngòi nổ để ném hai qua? CBU, họ nắm đằng chuôi từ đầu chí cuối tất cả mọi chuyện, bom thì để sẵn đó nhưng chưa cho ngòi nổ. Có giả thuyết cho rằng người Mỹ cho ném 2 quả CBU để ngăn chận bớt đà tiến quân của BV để họ kịp thời di tản, họ cảnh cáo BV. Cũng có người cho rằng họ chỉ cho ném 2 quả để thí nghiệm vũ khí, cả hai giả thuyết đều có thể đúng. Tất cả những gì người Mỹ làm đều nhằm vào những mục đích riêng tư của họ và không bao giờ đếm xỉa tới xương máu của cả hai miền Nam Bắc. Sinh mạng của nhân dân ta chẳng qua cũng chỉ là vật thí nghiệm cho một cuộc chiến tranh phản bội.
   Hồi ấy có người nói “Nó cố tình bỏ mình chứ nếu không nó lấy CBU nó ném thì VC chết hết chứ sống sao nổi?”
    Trước khi cuộc lui binh khỏi Xuân Lộc bắt đầu, ngày 18-4 Uỷ ban Quốc phòng Thượng viện biểu quyết bác bỏ bác bỏ đề nghị viện trợ khẩn cấp cho VNCH của Tổng thống Mỹ, họ chỉ cho tiền cứu trợ di tản. Hai hôm sau cuộc lui binh, ngày 23-4-1975 tại đại học Tulane, New Orléans, Tổng thống Ford tuyên bố “Đối với Hoa Kỳ chiến tranh VN đã kết thúc” ….Sư đoàn 18 BB, ĐPQ Long Khánh cùng các đơn vị tăng phái đã liều thân sống chết chống trả cuộc tấn công vũ bão của quân thù, đã chận đứng cuộc tiến quân của địch tại Dầu Giây, Xuân Lộc. Nhưng mọi nỗ lực và hy sinh gian khổ của binh lính để giữ vững phòng tuyến, xương máu của biết bao nhiêu chiến sĩ cuối cùng cũng chỉ là “dạ tràng xe cát”, nước lã ra sông…
    “ Khi Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng, buông súng, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo dừng quân trên xa lộ Biên Hoà, nhìn vào hướng Trường Bộ Binh Thủ Đức, Long Thành Bà Rịa, và xa kia Xuân Lộc, Long Khánh, gần hơn Trung Liệt Đài của Nghĩa Trang Quân Đội, Long Bình. Ông thấy thấp thoáng bức tượng Tiếc Thương tạc hình Người Lính Chờ Đợi in hình trong không gian mờ khói đạn. 


Đại tướng Văn Tiến Dũng: Nhà quân sự xuất sắc của dân tộc Việt Nam


 Đại tướng Văn Tiến Dũng (1917-2002) là học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người con ưu tú của Thủ đô Hà Nội, vị tướng tài ba, mưu lược, nhà quân sự xuất sắc của dân tộc Việt Nam. 

… Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, đảm nhiệm nhiều trọng trách khác nhau, càng trải qua khó khăn, gian khổ với những thử thách gay go, ác liệt, tài năng quân sự của Đại tướng Văn Tiến Dũng càng được bộc lộ rõ nét. Trong đó, phải kể đến hai thời kỳ: Thời kỳ ông làm Chính ủy kiêm Tư lệnh Đại đoàn 320, chiến đấu trong vùng địch hậu Đồng bằng Bắc bộ và thời kỳ ông làm Tổng Tham mưu trưởng tham gia chỉ đạo, chỉ huy nhiều chiến dịch lớn tầm chiến lược.
Vị tướng tài ba trong kháng chiến chống Pháp
Đầu năm 1951, trước yêu cầu xây dựng, phát triển quân đội và đẩy mạnh kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đồng chí Văn Tiến Dũng được Trung ương Quân ủy và Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ thành lập Đại đoàn 320-một trong những đại đoàn chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn về người, vật chất và vũ khí trang bị nhưng với tài thao lược của Đại đoàn trưởng Văn Tiến Dũng, Đại đoàn 320 đã liên tiếp giành thắng lợi trong hàng trăm trận đánh, hàng chục chiến dịch. 
Đánh giá về tài thao lược của Đại đoàn trưởng Văn Tiến Dũng trong những năm tháng chỉ huy Đại đoàn 320 hoạt động trên chiến trường Bắc bộ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định: “Trong kháng chiến chống Pháp, đồng chí Văn Tiến Dũng được Trung ương điều về Liên khu 3 tăng cường lãnh đạo chiến tranh du kích ở Đồng bằng Bắc bộ. Đầu năm 1951, khi thành lập Đại đoàn 320, đồng chí được chỉ định làm Tư lệnh, kiêm Chính ủy Đại đoàn. Có thể nói, chiến trường đồng bằng và Đại đoàn 320 là nơi đồng chí Văn Tiến Dũng phát triển tài năng quân sự xuất sắc của mình, chỉ huy bộ đội đánh bại nhiều cuộc càn lớn của các binh đoàn cơ động quân Pháp, cùng các lực lượng vũ trang địa phương phát triển phong trào du kích chiến...
Bước sang năm 1953, diễn biến cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ngày càng có lợi cho ta. Ta càng đánh càng mạnh, thực dân Pháp càng kéo dài cuộc chiến càng lún sâu vào thế bị động, lúng túng. Đáp ứng nhu cầu chỉ đạo chiến tranh ngày càng cao ở cơ quan chiến lược, tháng 11/1953, Bộ Chính trị quyết định điều động Thiếu tướng Văn Tiến Dũng - Đại đoàn trưởng Đại đoàn 320 về làm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Nhận nhiệm vụ mới trong điều kiện chiến sự đang diễn ra dồn dập trên khắp các chiến trường, ông đã nhanh chóng tổ chức lực lượng nghiên cứu, rà soát các phương án đánh địch; chỉ đạo các cơ quan, đơn vị chuẩn bị người, vật chất cho mặt trận và khắc phục những khó khăn, vướng mắc nhằm chuẩn bị tốt nhất cho cuộc tổng công kích vào sào huyệt cuối cùng của thực dân Pháp.
Trong những ngày diễn ra Chiến dịch Điện Biên Phủ, theo sự phân công của Bộ Tổng Tư lệnh, Thiếu tướng Văn Tiến Dũng đã cùng đồng chí Nguyễn Chí Thanh tham mưu, giúp Bộ Chính trị và Trung ương Đảng chỉ đạo chiến trường đồng bằng, đồng thời tổ chức huy động sức người, sức của chi viện cho Mặt trận Điện Biên Phủ.
Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trên cương vị Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Thượng tướng Văn Tiến Dũng luôn đi sâu, đi sát các đơn vị và chiến trường để nắm bắt tình hình, đúc kết thành quy luật, phương châm chỉ đạo tác chiến, đề xuất ý kiến với Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đưa các quyết sách đúng đắn, kịp thời cho từng chiến trường, từng giai đoạn lịch sử của đất nước.
Những thắng lợi mang đậm dấu ấn vị tướng Tổng Tham mưu trưởng 
Thực tiễn chiến đấu và thắng lợi trong các cuộc đụng đầu với quân Mỹ là cơ sở quan trọng để Ban Chấp hành Trung ương Đảng hình thành và hoàn chỉnh Nghị quyết Trung ương 12, khóa II (tháng 12/1965), khẳng định quyết tâm, đường lối đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Lịch sử đã chứng minh, trong các năm sau đó, chúng ta đã đánh bại 2 cuộc phản công chiến lược mùa khô thứ nhất (1965-1966) và mùa khô thứ hai (1966-1967) của Mỹ. Đặc biệt, chúng ta mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, bất ngờ đánh mạnh vào các mục tiêu trong đô thị trên toàn miền Nam, làm chấn động nước Mỹ, buộc giới lãnh đạo Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán và thừa nhận sự phá sản của chiến lược “Chiến tranh cục bộ”. Thắng lợi đó mang đậm dấu ấn của Bộ Tổng Tham mưu do Thượng tướng Văn Tiến Dũng làm Tổng Tham mưu trưởng.
Khi đế quốc Mỹ thực hiện Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, Thượng tướng Văn Tiến Dũng được Bộ Chính trị tin tưởng trực tiếp giao nhiệm vụ chỉ đạo nhiều chiến dịch lớn có ý nghĩa quan trọng, như: Chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào (từ 30/1 đến 23/3/1971), đánh bại cuộc hành quân Lam Sơn 719 của địch, làm thay đổi căn bản cục diện chiến trường ba nước Đông Dương, làm lung lay chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ; Chiến dịch Trị - Thiên (tháng 3/1972), tiêu diệt Sư đoàn 3 cùng toàn bộ hệ thống phòng ngự của quân đội Sài Gòn, giải phóng tỉnh Quảng Trị.
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, Đại tướng Văn Tiến Dũng được giao trọng trách thay mặt Bộ Chính trị trực tiếp chỉ đạo Chiến dịch Tây Nguyên (tháng 3/1975). Trong chiến dịch này, ông đã chỉ đạo dùng các binh đoàn cơ động thọc sâu vào Sở Chỉ huy Sư đoàn 23 ngụy. Với nghệ thuật “nở hoa trong lòng địch”, chiến dịch đã giành thắng lợi, mở ra khả năng kết thúc sớm cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tháng 4/1975, trên cương vị là Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Văn Tiến Dũng đã chỉ đạo quân và dân ta thực hiện cách đánh táo bạo, thọc sâu, kết hợp vu hồi, đột phá, tạo và nắm thời cơ, chủ động tiến công, giải phóng Sài Gòn - Gia Định, đầu não của chính quyền Sài Gòn, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất, với các trọng trách: Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Đại tướng Văn Tiến Dũng tiếp tục có những cống hiến to lớn trong việc chỉ đạo các lực lượng vũ trang nhân dân, Quân đội nhân dân tham gia củng cố các vùng mới giải phóng, từng bước khắc phục hậu quả chiến tranh và triển khai thực hiện nhiệm vụ xây dựng Quân đội nhân dân, củng cố nền quốc phòng toàn dân, chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc của Tổ quốc.
Thập niên 1980, trên cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Bí thư thứ Nhất rồi Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Đại tướng Văn Tiến Dũng đã tập trung chỉ đạo xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu, tăng cường khả năng phòng thủ đất nước, làm thất bại thủ đoạn chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch; đồng thời, cứu giúp nhân dân Campuchia đánh đổ tập đoàn phản động Khơ-me Đỏ, góp phần to lớn vào việc củng cố, tăng cường tình đoàn kết giữa ba nước Đông Dương.
Đánh giá về công lao đóng góp và tài thao lược của Đại tướng Văn Tiến Dũng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định: “Đại tướng Văn Tiến Dũng - một vị tướng có tinh thần quyết thắng lớn và tài thao lược xuất chúng, một người cộng sản kiên cường, bất khuất đã cống hiến cả cuộc đời cho lý tưởng của Đảng, cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
     Không chỉ là vị tướng cầm quân xuất sắc, Đại tướng Văn Tiến Dũng còn là một nhà lý luận quân sự khoa học tài ba. Từ năm 1986, khi được Ban Chấp hành Trung ương Đảng phân công chỉ đạo công tác tổng kết chiến tranh và biên soạn lịch sử quân sự, Đại tướng đã có nhiều đóng góp to lớn vào kho tàng lý luận và nghệ thuật quân sự Việt Nam, đặc biệt là lý luận và nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh nhân dân của Đảng.
Những bài viết, công trình tiêu biểu của ông như: “Mấy vấn đề về nghệ thuật quân sự Việt Nam” được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và công nghệ năm 2007, tập hồi ký “Đại thắng mùa Xuân” viết về cuộc Tổng tiến công chiến lược Xuân 1975; “Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975 - Thắng lợi và bài học”... là những pho sử quý và là cẩm nang để các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam hôm nay và mai sau nghiên cứu, học tập và noi theo.


Đặc trưng cơ bản của " diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ" là gì?

  Bạo loạn lật đổ là những hành động chống phá bằng bạo lực có tổ chức của lực lượng phản động, gây rối loạn trật tự an ninh xã hội, nhằm lật đổ chính quyền tiến bộ (cách mạng) thiết lập chính quyền phản động ở địa phương hoặc trung ương. Bạo loạn lật đỗ là một thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động trong chiến lược diễn biến hòa bình để xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”.
    Đặc trưng chủ yếu của bạo loạn lật đỗ là các hoạt động bằng bạo lực có tổ chức của chủ nghĩa đế quốc và lực lượng phản động để chống phá các nước tiến bộ trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa. Mà mục đích của nó là nhằm lật đổ chính quyền tiến bộ thiết lập chính quyền phản động ở địa phương hoặc trung ương. Diễn biến hòa bình là quá trình tạo nên những điều kiện, thời cơ cho bạo loạn lật đỗ. Cả diễn biến hòa bình và bạo loạn lật đỗ đều cùng bản chất phản cách mạng trong âm mưu chống phá các nước tiến bộ, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa. 
    Diễn biến hòa bình kết hợp với bạo loạn lật đổ của Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch thực hiện “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ để chống phá cách mạng Việt Nam là một quá trình mà thủ đoạn của nó hết sức phức tạp mà được minh chứng cụ thể là ngày 3 tháng 2 năm 1994, Mĩ tuyên bố bỏ cấm vận kinh tế với Việt Nam. Ngày 11 tháng 7 năm 1995, Mĩ tuyên bố bình thường hoá quan hệ Việt – Mĩ. Ngay đêm 11 tháng 7 năm 1995 Tổng thống Mĩ – Bil Clintơn (B. Clin-tơn) tuyên bố: “Việc bình thường hoá quan hệ của chúng ta với Việt Nam không phải là kết thúc nỗ lực của chúng ta. Chúng ta sẽ tiếp tục phấn đấu cho đến khi chúng ta có được những câu trả lời mà chúng ta có thể có”. Tôi tin tưởng rằng việc bình thường hoá và tăng cường các cuộc tiếp xúc giữa người Mĩ và người Việt Nam sẽ thúc đẩy sự nghiệp tự do ở Việt Nam như đã từng diễn ra ở Đông Âu và Liên Xô trước đây”.
     Như vậy, âm mưu xuyên suốt của Mĩ đối với Việt Nam là, xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam càng nhanh càng tốt. Vì Mĩ và các thế lực thù địch cho rằng: Việt Nam là ngọn cờ đấu tranh cho độc lập dân tộc và đang kiên quyết nhất trong việc chống phá chủ nghĩa đế quốc. Nếu xoá bỏ được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, sẽ có thêm nhiều thuận lợi để xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở các nước còn lại và uy hiếp độc lập dân tộc của các nước khác. Có xoá bỏ được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Mĩ mới xoá được “Hội chứng Việt Nam” trên đất Mĩ.
     Cùng với các lí do để xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, các chiến lược gia của Mĩ cũng thấy được các trở ngại khi thực hiện âm mưu trên là: Việt Nam có một Đảng Cộng Sản giàu truyền thống, có đội ngũ kế cận vững vàng. Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không những không sụp đỗ như Đông Âu và Liên Xô mà còn tiến lên; lòng tin của nhân dân Việt Nam vào Đảng Cộng sản và chủ nghĩa xã hội ngày càng được củng cố.
    Tình hình thực tế hiện nay chúng thực hiện diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đỗ chống phá cách mạng Việt Nam với mục tiêu  của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch của chủ nghĩa xã hội, luôn coi Việt Nam là một trọng điểm chống phá. Mục tiêu là xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, lôi kéo Việt Nam vào quỹ đạo của chúng với phương châm chỉ đạo "Mềm, ngầm, sâu. Diễn biến hòa bình là chính kết hợp răn đe quân sự có lựa chọn và khi có thời cơ, xây dựng lực lượng phản động người Việt Nam ở trong và ngoài nước Việt Nam là chính: (ngụy quân, ngụy quyền cũ không cải tạo, lực lượng phản động trong dân tộc, tôn giáo, trí thức, văn nghệ sĩ, các phần tử thoái hoá biến chất, bất mãn trong các cơ quan Đảng, Nhà nước và trong nhân dân ta); phá hoại càng cao, càng sâu càng tết, phá có trọng điểm, chui sâu leo cao vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang, phá hoại kinh tế là trọng tâm". 
  Thủ đoạn hoạt động chủ yếu là chống phá về chính trị tư tưởng, trọng tâm là xoá bỏ chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng làm tiêu tan nền tảng tư tưởng trong các tổ chức Đảng, tổ chức xã hội và mọi tầng lớp nhân dân, nhất là đối với thế hệ trẻ. Bằng cách ra sức tuyên truyền, xuyên tạc, hạ thấp hòng vô hiệu hoá chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội, như việc chúng đòi xoá Điều 4 trong Hiến pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam…
     Phá vỡ khối đại đoàn kết của toàn dân, của các tổ chức chính trị-xã hội. Bằng cách xuyên tạc, chia rẽ. làm cho nội bộ ta không tin nhau, nghi ngờ lẫn nhau, gây rối loạn nội bộ. Nhằm dễ cài cắm những quan điểm mơ hồ, những phần tử cơ hội, thậm chí phần tử phản động, thực hiện kế hoạch “kén làm tổ”, “chui sâu, leo cao” để ngầm phá ta từ bên trong lâu dài.
    Về hoạt động phá hoại kinh tế với ý đồ làm cho Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế, luôn ở trạng thái đói nghèo, buộc phải suy sụp hoặc phải khuất phục, chuyển hoá chế độ chính trị. Hiện nay chúng tập trung phá vỡ quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa của ta bằng nhiều thủ đoạn rất xảo quyệt, như việc lợi dụng quan hệ hợp tác đầu tư liên doanh, liên kết (nhất là qua các khâu: vốn, chuyên gia, kĩ thuật), tìm cách phủ định định hướng chủ nghĩa xã hội trong nền kinh tế nhiều thành phần, thực hiện: vừa khuyến khích, ca ngợi kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, vừa tư nhân hoá dần dần làm mất vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. Chúng cho việc làm đó là để xoá tận gốc kiểu quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất ở Việt Nam.
    Lợi dụng các vấn đề tôn giáo, dân tộc để chống phá ta, triệt để khai thác các mâu thuẫn giữa các dân tộc do nhiều nguyên nhân gây ra, để chia rẽ khối đoàn kết, tạo dựng những mâu thuẫn mới, kích động tư tưởng hẹp hòi dân tộc, đòi quyền tự quyết dân tộc chủ nghĩa, như việc xuyên tạc, kích động, mua chuộc, xúi dục một số dân tộc thiểu số đấu tranh Với Đảng, Nhà nước ta để đòi cái gọi là “độc lập quốc gia tự trị”. Chúng tận dụng tối đa mọi cơ hội để kích động làm bùng nổ các cuộc đòi ‘dân chủ’, tôn trọng “quyền” của các dân tộc, nhằm gây rối loạn tình hình an ninh xã hội.
    Về văn hoá, hoạt động tập trung nhất của chúng là, tiến công vào nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Bằng cách, làm phai mờ những giá trị văn hoá truyền thống cách mạng của chúng ta, kết hợp với việc gieo rắc Văn hoá phản động, suy đồi nhằm chuyển đổi văn hoá Việt Nam thành “thuộc địa văn hoá” của chủ nghĩa đế quốc. Như việc thông qua nhiều “kênh”, nhiều thủ đoạn, chúng ra sức tuyên truyền, cổ vũ cho văn hoá, lối sống phương Tây – thực dụng, trụy lạc, tôn thờ đồng tiền là trên hết, sống ích kỷ, phi đạo đức. Tất cả việc làm đó còn nhằm tạo ra và bổ sung cho đội quân xung kích diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đỗ của chúng.
    Về an ninh quốc phòng, chúng tập trung làm vô hiệu hoá lực lượng vũ trang nhân dân, chủ yếu là quân đội nhân dân và công an nhân dân, đây là lực lượng tập trung nhất bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân. Hoạt động chủ yếu của chúng nhằm phá vỡ hệ tư tưởng, tổ chức của quân đội và công an. Làm cho lực lượng này xa rời mục tiêu chiến đấu, rêu rã tổ chức; xói mòn về đạo đức, phẩm chất, lối sống… để dẫn tới giảm lòng tin vào Đảng, vào chế độ, mất phương hướng và thay đổi bản chất cách mạng của mình. Kích động, phối hợp hành động của lực Iượng phản động trong nước và phản động ngoài nước. Kẻ thù rất coi trọng lực lượng phản động trong nước, nhằm tạo dựng lực lượng trực tiếp chống phá ta từ bên trong. 
      Chúng sử dụng các lực lượng trong nước để làm cầu nối giữa các tổ chức phản động trong nước và tổ chức phản động ngoài nước, vừa phối hợp hoạt động, vừa tập trung lực lượng. Chúng sử dụng các thủ đoạn xảo quyệt, tinh vi trong hoạt động để giành những mục tiêu cụ thể. Trong đó khoét sâu vào các vấn đề kinh tế, dân chủ, nhân quyền, công bằng xã hội, phục hồi tư tưởng chống Cộng, gây chiến tranh tâm lí làm hoang mang dao động ở một số người, tạo nên tình hình xã hội luôn căng thẳng, nhằm gây bạo loạn lật đỗ từ nhỏ đến lớn: Như việc hoạt động của bọn phản động người Việt sống ở nước ngoài thời kì chúng gọi là “hậu bình thường hoá” quan hệ Việt – Mĩ, với hai trọng điểm chiến lược chống ta: “Giữ vững chiến tuyến chống Cộng tại hải ngoại – tấn công mãnh liệt vào Việt cộng tại quốc nội”, bằng những chính sách rất nham hiểm, xảo trá như: Chính sách “ngoại vận”, nhằm mở các đợt hoạt động tuyên truyền sâu, rộng lên án Việt Nam vi phạm nhân quyền, tự do dân chủ, đàn áp tôn giáo. Thực hiện chính sách đó,  chúng đi vào từng đối tượng để “vận động” và có những mục tiêu cụ thể. Đối với tín đồ, đòi tự do tôn giáo, hành đạo, huỷ bỏ “hệ thống tôn giáo quốc doanh”. Đối với dân, đòi dân chủ, dân sinh. Đối với văn nghệ sĩ, trí thức, đòi tự do ngôn luận, hội họp. Chúng đem cách sử dụng mọi phương tiện truyền thông nhằm “đánh vào trái tim khối óc ộng sản, huy động tận tâm thức sâu thẳm của đồng bào trong nước”, hoặc chính sách “tổ chức, liên kết trong ngoài” để liên kết các hội đoàn phản động ngoài nước, bí mật thành lập tổ chức phản động trong nước và liên kết hai lực lượng đó lại…
      Tóm lại, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động dùng nhiều thủ đoạn, trên tất cả các lĩnh vực để chống ta. Chúng hết sức chú ý đẩy mạnh, mở rộng quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” từ trong nội bộ ta. Đồng thời với việc gây lình huống, tạo cớ để nhân danh các tổ chức quốc tế nhảy vào can thiệp vào công việc nội bộ của ta, kể cả can thiệp bằng quân sự. Chính vì vậy cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống chiến lược diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đỗ càng trở nên phức tạp, lâu dài, đòi hỏi sự kiên trì, quyết tâm cao của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và chúng ta nhất định sẽ giành thắng lợi.


Bà Đầm Xòe lộ nguyên hình kẻ phản động

Xuyên tạc, dựng chuyện, làm cho một số người nhẹ dạ, cả tin, bán tín, bán nghi dẫn đến mất niềm tin vào Đảng Cộng sản Việt Nam là âm mưu, thủ đoạn thâm độc của những kẻ phản động nói chung và Bà Đầm Xòe nói riêng. Ngày 09/03/2017, cuối bài viết với tiêu đề: “Phong trào đấu tranh thay đổi thể chế cộng sản cầm quyền đang chuyển thế và lực”, Bà Đầm Xòe ra lời kêu gọi: “Hỡi nhân dân Việt Nam lầm than hãy anh dũng tiến lên”, thì thật là thô thiển, lộ rõ nguyên hình của kẻ phản động.
1. Bất kỳ người dân lương thiện nào cũng biết và thừa nhận: để duy trì sự tồn tại và phát triển đất nước, mỗi quốc gia đều có Hiến pháp và pháp luật riêng của mình. Mọi thành viên trong xã hội đều có nghĩa vụ và trách nhiệm chấp hành nghiêm hiến pháp và pháp luật. Thực hiện nghiêm hiến pháp và pháp luật là thể hiện công bằng, dân chủ, văn minh của các thành viên trong xã hội. Những người nào vi phạm hiến pháp và pháp luật đều bị xử theo hiến pháp và pháp luật là lẽ tất nhiên. Cũng như các nước trên thế giới, ở Việt Nam một số người lợi dụng dân chủ chống Đảng, Nhà nước, bị xử lý theo pháp luật, thế mà Bà Đầm Xòe lớn tiếng cho rằng: O ép, chặn đường làm ăn sinh sống, đe dọa, khủng bố, bắt bớ, tù đầy nhằm làm cho những người đấu tranh vì dân chủ chùn bước. Bà Đầm Xòe phải hiểu rằng: 87 năm qua dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam, toàn thể dân tộc Việt Nam đã đứng dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền năm 1945, đánh thắng hai đế quốc đầu sỏ Thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, tiến hành thắng lợi hai cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía tây Nam và phía Bắc. Ngày nay, Đảng đang lãnh đạo nhân dân tiến hành đổi mới, thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Với những thành tựu đạt được, nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới mừng cho Việt Nam, nhân dân Việt Nam tự hào về Đảng của mình, nhiều người Việt một thời đã từng ở bên kia chiến tuyến tuyên bố “không đội trời chung với cộng sản” đã quay về quê cha đất tổ, rũ bỏ thù hằn và đã được Mẹ Tổ quốc mở rộng vòng tay đón nhận.
2. Không thể nói bừa rằng: Lực lượng đấu tranh cho “dân chủ” đang dần dần hình thành một bức tường thép, sẵn sàng dấn bước, sẵn sàng chấp nhận tù đầy, sẵn sàng hiến thân mình cho một nước Việt Nam dân chủ để ngày mai tươi sáng. Đà Đầm Xòe cố tình không hiểu rằng: Sự thật lịch sử là khách quan. Không ai có thể phủ nhận, hay xuyên tạc được những hy sinh, mất mát to lớn của nhiều thế hệ người Việt Nam để làm nên kỳ tích vĩ đại trong lịch sử dân tộc ta ở thế kỷ XX. Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã đoàn kết một lòng với ý chí “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã kiên quyết đứng lên chiến đấu, chấp nhận gian khổ hy sinh để bảo vệ quyền được sống trong tự do và độc lập. Từ một nước không có tên trên bản đồ thế giới, chìm trong nô lệ, lầm than, dân tộc ta đã đứng vào hàng ngũ tiên phong của các dân tộc trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới ở thế kỷ XX, trở thành lương tri của thời đại. Thắng lợi đó không chỉ là niềm tự hào của nhân dân Việt Nam mà còn là niềm tự hào của nhân dân và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Tinh thần anh dũng hy sinh của dân tộc Việt Nam là tấm gương để nhân dân và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới noi theo. Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam trên mọi miền của Tổ quốc đang ra sức thi đua xây dựng quê hương đất nước. Ý Đảng, lòng dân sự đồng tâm, hợp lực của nhân dân Việt Nam đang là bức tường thép để ngăn cản những nọc độc, vu khống, xuyên tạc, kích động của những kẻ phản động như Bà Đầm Xòe.

3. Càng đọc và suy ngẫm, càng thấy buồn cho Bà Đầm Xòe. Không biết, Bà Đầm Xòe viết cho ai đọc? Nếu viết cho nhân dân Việt Nam đọc, thì Bà Đầm Xòe đã nhầm to rồi. Bởi lẽ, cách nói, cách viết của người Việt luôn giản dị, sâu sắc, giàu hình tượng, chứ không thô thiển, hằn học như ngôn từ của Bà Đầm Xòe đã sử dụng. Cách dùng xảo ngôn của Bà Đầm Xòe đã bộc lộ rõ nguyên hình của kẻ phản động, nhằm kích động, tuyên truyền, lôi kéo lực lượng chống Đảng, chống chế độ, sẽ không lừa được ai./.

Cần có cách nhìn khách quan về tình hình quyền con người ở Việt Nam

         Đã từ lâu, ở nước ngoài, một số người vốn kỳ thị với chế độ xã hội do Đảng Cộng sản lãnh đạo, trong đó có Việt Nam, và một số kẻ cực hữu, nhất là ở Hạ viện Hoa Kỳ, Nghị viện Châu Âu, cùng với một số hãng thông tấn, báo chí phương Tây, trong đó có RFA, VOA, BBC… luôn đưa tin xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền.
Ở trong nước, một số người vì những lý do khác nhau muốn chuyển hóa chế độ do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sang mô hình xã hội “dân chủ”, “nhân quyền” ngoại nhập đã lợi dụng bối cảnh toàn cầu hóa, những khó khăn của nền kinh tế đất nước để xuyên tạc, bôi đen tình hình dân chủ, nhân quyền Việt Nam.
Trước một số vấn đề kinh tế-xã hội-môi trường mới nảy sinh, trong đó có sự cố môi trường biển nghiêm trọng do Công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh, thuộc Tập đoàn Formosa, Đài Loan gây ra (tháng 4-2016), một số kẻ xấu đã lợi dụng, gây rối hòng làm mất ổn định chính trị-xã hội, chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản, Nhà nước CHXHCN Việt Nam với nhân dân.
Như các phương tiện thông tin đại chúng đã đưa: Vào tháng 2 và đầu tháng 4-2017, sau vụ gây ô nhiễm của Formosa đã hơn một năm (sau khi vụ việc đã cơ bản được giải quyết, Formosa chấp nhận bồi thường và khắc phục những sai sót…) nhưng một số giáo dân ở Nghệ An, Hà Tĩnh do hai linh mục Nguyễn Đình Thục và Đặng Hữu Nam kích động đã tụ tập gây rối, đập phá tài sản, gây rối tại trụ sở UBND huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Tiếp đó, họ tụ tập đông người, căng băng rôn, hô khẩu hiệu “đuổi Formosa”… Hành vi của họ đã gây ách tắc giao thông, thậm chí ép cả xe cấp cứu phải dừng trên Quốc lộ 1A. Nhằm thu hút dư luận trong nước và quốc tế, họ còn dùng loa phóng thanh, điện thoại ghi hình tung lên mạng…
Trên địa bàn quản lý của mình, hai ông Nguyễn Đình Thục và Đặng Hữu Nam đã lợi dụng giáo đường để tuyên truyền xuyên tạc, vu khống Đảng Cộng sản và Nhà nước CHXHCN Việt Nam. Trên mạng YouTube đến nay vẫn còn clip bài giảng của ông Nguyễn Đình Thục. Ông đã nhiều lần nói rằng: “Cộng sản là độc ác, gian tham…”. Những hành vi nói trên của hai ông Nguyễn Đình Thục và Đặng Hữu Nam đã vi phạm Điều 88 (tội tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam) và Điều 89 (tội kích động, lôi kéo, tụ tập nhiều người phá rối an ninh, chống người thi hành công vụ, cản trở hoạt động của cơ quan, tổ chức-Bộ luật Hình sự nước CHXHCN Việt Nam). Hoặc gần đây, liên quan đến đất đai ở xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, TP Hà Nội… dẫn đến một số hành động đáng tiếc của người dân và sau cuộc đối thoại giữa Chủ tịch UBND TP Hà Nội với người dân thì sự việc đã dường như tìm ra hướng giải quyết. 
Như vậy có thể nói hoàn toàn không có chuyện chính quyền, công an Việt Nam “vi phạm dân chủ, nhân quyền ngày càng trầm trọng”, “bắt giữ các blogger”, “các đại diện tôn giáo”, đàn áp người dân “biểu tình hòa bình”, hoặc “ bịt mồm các nhà báo”.
Quyền con người (QCN) là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử nhân loại, là giá trị cao quý chung của các dân tộc. Với tư cách là giá trị pháp lý, QCN là quy định pháp luật (trong luật quốc gia và luật quốc tế) nhằm bảo vệ nhân phẩm, các nhu cầu về vật chất, tinh thần của tất cả mọi người, đồng thời mỗi người phải có nghĩa vụ tôn trọng an ninh quốc gia, trật tự công cộng, quyền và lợi ích của người khác và những giá trị văn hóa, đạo đức xã hội. Nói một cách cụ thể: Không cá nhân, tổ chức nào được nhân danh QCN để đứng ngoài xã hội, đứng trên pháp luật. Điều này không phải chỉ đối với xã hội, Nhà nước ta mà cũng là quy định chung của các quốc gia trên thế giới.
Mặc dù QCN ở nước ta cũng như nhiều nước khác vẫn còn những hạn chế, khác biệt nào đó, chẳng hạn như một số quyền về kinh tế-xã hội ở nước ta, do thiếu nguồn lực nên chưa đáp ứng như ở các nước phát triển, hoặc về một số quyền dân sự, chính trị do truyền thống lịch sử và văn hóa, như quyền tự do ngôn luận, báo chí… pháp luật quy định không được phép xúc phạm lãnh tụ, kỳ thị tôn giáo... song có thể nói cho đến nay, QCN ở nước ta luôn được tôn trọng và bảo đảm cả trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị, pháp lý và trong thực tế.
Cương lĩnh Đại hội XI xác định mục tiêu của Đảng Cộng sản Việt Nam là xây dựng một xã hội “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Báo cáo chính trị Đại hội XII đã tái xác định quan điểm về QCN của Cương lĩnh: “Coi trọng chăm lo hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người, bảo vệ và bảo đảm quyền cũng như lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà nước ta ký kết”. Hiến pháp 2013 đã dành cả một chương (Chương II) quy định đầy đủ các QCN, quyền và nghĩa vụ công dân. Cho đến nay, Việt Nam đã ký kết, tham gia đầy đủ những công ước quốc tế cơ bản về quyền con người. Đây là những cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc bảo đảm QCN.
Trên thực tế, các QCN của nhân dân ta đã được bảo đảm tốt nhất trong những điều kiện của mình. Về các quyền dân sự, chính trị, việc bảo đảm các quyền này được thể hiện rõ trong cuộc bầu cử Quốc hội khóa XIV. Tỷ lệ cử tri đã bỏ phiếu đạt 99,35%. Về cơ cấu đại biểu, có 86 đại biểu là người dân tộc thiểu số, phụ nữ là 133 người, người ngoài Đảng là 21 người... Tỷ lệ nữ và dân tộc thiểu số của Quốc hội Việt Nam so với nhiều quốc gia ở khu vực thuộc vào loại cao. Lần đầu tiên Việt Nam có Chủ tịch Quốc hội là nữ.
Về quyền tự do ngôn luận, báo chí, theo thống kê chưa đầy đủ, cho đến nay Việt Nam đã có 858 cơ quan báo chí in; 105 cơ quan báo điện tử; 207 trang thông tin điện tử tổng hợp của các cơ quan báo chí. Hiện nay, không chỉ người dân Việt Nam mà cư dân nước ngoài sinh sống, làm việc ở Việt Nam đều có đầy đủ thông tin từ những hãng thông tấn, báo chí lớn như: CNN, BBC, TV5, NHK, DW, Australia Network, KBS, Bloomberg. Qua internet, người dân Việt Nam cũng có thể tiếp cận tin tức, bài vở của các cơ quan thông tấn, báo chí như: AFP, AP, BBC, VOA, ReutersKyodoThe EconomistFinancial Times...
Nhiều chuyên gia đánh giá Việt Nam là quốc gia có tốc độ phát triển internet hàng đầu khu vực, đặc biệt là mạng Facebook. Theo cơ quan thống kê của mạng Facebook, hiện tại Việt Nam có 35 triệu người, bằng 1/3 dân số sở hữu tài khoản Facebook. Trong đó, 21 triệu người truy cập hằng ngày thông qua thiết bị di động. Việt Nam là quốc gia có lượng người dùng internet lớn thứ 3 tại khu vực Đông Nam Á.
Về các quyền kinh tế-xã hội, mặc dù kinh tế thế giới và khu vực chưa ổn định sau thời kỳ suy giảm kéo dài, kinh tế nước ta đã được khôi phục. Năm 2016, kinh tế vĩ mô ổn định, các cân đối lớn cơ bản được bảo đảm. Đời sống của người dân được bảo đảm, một bộ phận được nâng cao. Thực hiện chủ trương giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011-2020, Quốc hội, Chính phủ đã ra nhiều văn bản quy phạm pháp luật tập trung vào 6 nhóm chính sách chủ yếu: Tín dụng ưu đãi; giáo dục-đào tạo; y tế; nhà ở; đào tạo nghề, giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động; hỗ trợ sinh kế; trợ giúp pháp lý… Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân 5 năm gần đây đạt 6,5-7%/năm. Theo đánh giá của Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO), Việt Nam là một trong những nước đạt được thành tích nổi bật trong việc giảm số người bị đói từ 46,9% (32,16 triệu người) giai đoạn 1990-1992 xuống còn 9% (8,01 triệu người) trong giai đoạn 2010-2012 và đến năm 2016 chỉ còn 5,22%. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật (điện, đường giao thông, nước sạch…) và hạ tầng xã hội (y tế, trường học, điểm bưu điện…) nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được tiếp tục cải thiện đáng kể.
Công ăn việc làm của người lao động được tiếp tục nâng cao nhờ sự hồi phục của các doanh nghiệp. Năm 2016, cả nước có khoảng 110.100 doanh nghiệp ra đời với số vốn đăng ký hơn 891.000 tỷ đồng. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng là một điểm sáng trong bức tranh kinh tế chung của năm 2016. Tới ngày 26-12, tổng vốn FDI thực hiện ước đạt 15,8 tỷ USD, tăng 9%; tổng vốn đăng ký ước đạt 24,372 tỷ USD.
Như các phương tiện thông tin đại chúng đã đưa, nhằm giữ nghiêm kỷ cương, phép nước, nâng cao trách nhiệm phục vụ nhân dân, những cá nhân, tổ chức do thiếu trách nhiệm dẫn đến việc Formosa gây ô nhiễm làm tổn thương đến QCN của người dân 4 tỉnh miền Trung đã bị Đảng và Nhà nước xử lý kỷ luật. Ủy ban Kiểm tra Trung ương trong kỳ họp thứ 13 (ngày 12 và 13-4) đã kết luận: Thi hành kỷ luật ông Võ Kim Cự, nguyên Bí thư Tỉnh ủy, nguyên Bí thư Ban Cán sự Đảng, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh và ông Nguyễn Minh Quang, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bí thư Ban Cán sự Đảng, nguyên Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường (nhiệm kỳ 2011-2016). Trên cơ sở quyết định này, các cơ quan, tổ chức chính quyền sẽ có những hình thức xử lý thích đáng.
Thiết nghĩ, quan điểm của những cá nhân và tổ chức tự gọi là “đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền” chỉ dựa trên thông tin thất thiệt bao che cho một số cá nhân, những kẻ vi phạm pháp luật, tự cho mình quyền đứng trên pháp luật, đứng ngoài xã hội là một cách nhìn nhận hẹp hòi, thiển cận. QCN theo cách nhìn nhận đúng đắn, khách quan cần nhìn nhận đối với cuộc sống của hàng triệu, hàng triệu con người, họ vừa là những công dân tốt trong khi hưởng thụ QCN vừa thực hiện tốt nghĩa vụ của mình đối với nhà nước và xã hội. Cách nhìn nhận QCN dựa trên kỳ thị về chính trị, phủ nhận chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta về kinh tế-xã hội, trực tiếp bảo đảm các QCN về dân sự, chính trị, kinh tế-xã hội… cũng là cách nhìn nhận méo mó về QCN với động cơ chính trị xấu, không thể chấp nhận được.

Thực phẩm bẩn, lỗi tại ai?


    Sự việc đang là vấn đề thời sự nóng đã làm cho mọi người như đang đứng giữa sự tiến thoái lưỡng nan, ăn thì chết vì độc, không ăn thì chết vì đói. Vậy thì chỉ có một cách là thay đổi nhận thức dẫu chậm mà chắc, cả về nhận thức của người làm ra sản phẩm và người tiêu dùng sản phẩm đó …
    Rau muống tưới dầu nhớt thải - Măng tươi tẩm chất vàng ô - Dưa cải ngâm chất vàng ô - Thịt lợn nhiểm chất tạo nạc - Phẩm màu nhuộm ruốc - Chất tạo thịt gà đẹp - Dấm gạo chế biến từ acid - Thuốc ngừa thai trong sữa cho trẻ chóng lớn v.v…và còn rất nhiều thứ được gọi là thực phẩm bẩn đang tràn lan trong các chợ trong cả nước.

     Các cơ quan chức năng đang ra sức truy lùng kiểm tra vây bắt, có thể xữ phạt hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự, tiêu hủy những mặt hàng nhiểm bẩn, đây là việc cần làm đáng hoan nghênh về trách nhiệm của lãnh đạo quan tâm đến sức khỏe nhân dân. Nhiều diển đàn mạng đã tích cực lên án những người cố ý đầu độc đồng bào mình hoặc than thở không biết ăn uống cái gì trong lúc này mới an toàn cho sức khỏe. Nhưng nếu tẩy chay thì biết ăn cái gì để sống, trong lúc các loại thực phẩm hầu hết là nông sản, đảm bảo năng lượng cho con người.
       Việc bắt và xữ lý người vi phạm đã cố ý đầu độc con người là hoàn toàn chính xác, việc phải làm của các ngành chức năng là vấn đề đang là chúng ta không cần phải đề cập nhiều. Ở đây, người viết chỉ muốn nói cái sâu xa của sự việc, câu hỏi đặt ra là tại sao càng ngày thực phẩm bẩn này lại càng xuất hiện nhiều hơn.
     Trước hết phải nói đến lợi ích cá nhân, sự hấp dẫn từ nhuận cao, nhanh chóng làm giàu người ta bất chấp tội lỗi, bán rẻ lương tâm, bằng mọi giá kiếm lời, miễn sao cái hầu bao của họ mỗi ngày một chặt và phình to nhanh chóng theo thời gian, cái từ đồng bào, đồng loại đối với họ trở thành xa xỉ trong cuộc sống và họ không hay biết hoặc có thể đang biết rằng chính họ và con cháu họ cũng là nạn nhân của họ, do bởi họ đang bị đồng tiền làm mờ đôi mắt và mù lòa nhân phẩm. Phải chăng đây là một hội chứng của cuộc sống thực tại mà chưa ai có thể đặt tên cho nó. Và hiện tại họ đang mang cái tội rất nặng đó là tội đầu độc đồng bào, đồng loại, hay như cụm từ nặng hơn là “Người Việt đang giết lẫn nhau” mà xã hội đang lên án.
     Thế nhưng xét về một khía cạnh khác mà ít ai đề cập đó là sự đồng lõa với những kẻ độc ác kia là ai? Đó là chính những người tiêu dùng chúng ta. Ở đây không nói đến cụm từ người tiêu dùng thông minh, do bởi có thông minh hơn các thần đồng thì cũng phải chào thua và phải hàng ngày ăn bẩn bởi mấy ai phân biệt được cái bẩn sạch này…Mà thực tế là chính chúng ta đã vô tình hoặc cố tình buộc họ làm ra những thứ đáng sợ này…
      Ngày nay, trong sự phát triển chung của xã hội, thu nhập mỗi ngày một tăng trưởng, cái ăn uống cũng đòi hỏi theo, nhiều người trong chúng ta còn dùng cái cụm từ “ăn sành điệu”. Ừ thì cứ cho việc sành điệu ấy phát triển là lẽ đương nhiên trong cuộc sống hiện tại, nhưng chính cái sành điệu ấy lại là sự đồng lõa như đã nói ở trên. Có nghĩa là không chỉ ăn bằng miệng mà còn ăn ở con mắt, lỗ mũi hoặc ăn cả các giác quan, đây là mấu chốt của sự đánh giá, bởi khi đi mua thực phẩm tại các quầy bán rau, nếu những cọng rau sạch thật sự có chút xấu về hình dáng hoặc có vài con sâu ăn lá thì y như là quầy rau đó ế ẩm, còn nếu quầy nào có cọng rau đẹp bắt mắt, láng bóng là không đủ để bán. Đâu ai biết cho rằng quầy rau hơi xấu hình dáng kia là rau sạch chính thống, là nông sản thực thụ, nhưng nếu thực thụ thì biết bán cho ai, gần như bị tẩy chay tại chợ đó thôi. Vậy thì vì miếng cơm nuôi sống gia đình trong lúc nhà nông khó khăn về kinh tế họ phải quên đi cái gọi là đạo đức thì mới mong có sự tồn tại. Vậy là họ phải làm cho hàng của mình “bắt mắt” khách là lẽ đương nhiên. Họ đã phải tìm tòi nghiêng cứu cái gọi là “độc ác” ấy. Ví như rau muống khi tưới dầu nhớt thì lá đẹp mơn mỡn có thêm cái bóng loáng của cọng rau, đưa ra thị trường lần đầu khách hàng ưng ý mua mau bán đắt. Còn như con tép khô gọi là con ruốc khi phơi khô trên cát có cái màu trắng nguyên bản thì bị chê bai , dèm pha thậm chí là không bán được, trong khi con ruốc phơi trên nền gạch đất có màu hơi hồng hồng thì lại bán sạch ngay, vậy là ý tưởng nhuộm màu nãy sinh bất chấp nguy hại chẳng có gì lạ lẫm. Hay như măng tươi hoặc dưa cải muối, bản thân nó có cái màu đặc trưng bình thường như thế thì lại không thích không ưng ý, buộc lòng họ phải nhuộm vàng ô để chiều khách…
     Phải chăng đấy là tất cả sự đồng lõa mà vô tình chúng ta đã làm và như vậy thì chính chúng ta phải nghiêm túc xem lại mình liệu có một phần phạm lỗi trong việc này? ở đâu cũng có các mặt hàng măng tươi vàng đẹp, dưa cải muối vàng bắt mắt và đã có từ mấy năm rồi chứ đâu phải bây giờ và hiện tại hôm nay, mặt hàng này vẫn bán bình thường và người mua cũng đang ưa chuộng. Mãi đến mấy ngày gần đây khi báo chí phanh phui sự việc, các ngành chức năng vào cuộc thì người mua ở đây mới tá hỏa vì bấy lâu ăn cái thực phẩm này mà không biết. Đó là ăn cái đẹp mã mà rẻ cùi.
     Trong khi một số loại thịt heo, thịt bò bản thân nó săn chắc có màu sắc đặc trưng , giá cả thì theo thị trường nhưng bị coi là đắt, trong khi thịt khác có gian dối giá rẽ màu sáng đẹp hơn thì được ưa chuộng. Chỉ cần đến tại các quầy thịt tại một số chợ gần nhà là sẽ được mục sở thị các loại thịt như đã nói, người bán phân tích rất cụ thể về lý do giá cả rẽ hơn nhưng người mua vẫn cứ lao vào mà mua không riêng gì những người lao động nghèo khó mà hầu như 80 % người vào đây đều mua. Vậy là người bán lại cố gắng tạo ra sản phẩm vừa rẻ lại vừa đẹp…và còn nhiều lắm như các loại trái cây rẻ, đẹp; Dấm chua trắng trong rẻ, đẹp; thịt gà vàng ươm rẻ, đẹp v.v. hầu như không thể nào kể hết.
     Một điều nữa đáng đề cập là thường người tiêu dùng đến chợ đã gây kích thích sự tò mò của một bộ phận người bán, làm cho họ phải cố tìm ra những thứ mà khách hàng quan tâm, đó là câu hỏi cửa miệng của người mua: “ Rau này có tưới nhớt không? Hoặc “Nghe nói măng tươi có hóa chất gì đó làm cho có màu đẹp lắm? hoặc “Chuối này có ngâm thuốc làm chín không?” v.v. và v.v. từ những lẽ đó đã tạo nên sự bất cập như hiện nay.
     Sự việc đang là vấn đề thời sự nóng đã làm cho mọi người như đang đứng giữa sự tiến thoái lưỡng nan, ăn thì chết vì độc, không ăn thì chết vì đói. Vậy thì chỉ có một cách là thay đổi nhận thức dẫu chậm mà chắc, cả về nhận thức của người làm ra sản phẩm và người tiêu dùng sản phẩm đó … Còn về việc có hay không người đứng sau những việc làm đầu độc người Việt Nam mình thông qua sự cám dỗ của kẻ xấu mà nãy sinh sự việc thì mong ngành chức năng cố mà làm sáng tỏ. Riêng với người làm ra sản phẩm phải cảnh giác nhiều hơn nữa, đừng để bị kẻ xấu lợi dụng mà sinh ra tội bất nhân, thất đức, thậm chí còn mang tội hình sự chứ chẳng chơi; còn người tiêu dùng thì chẳng cần phải đem cái thông minh , thông thái ra làm chi cho tốn năng lượng đối với sản vật của nước nhà mà có đem cái bảo bối thông minh ra cũng chẳng làm gì được, Mấu chốt là các cơ quan quản lý thị trường hãy mạnh tay trong việc quản lý lĩnh vực mua bán cái ăn uống hàng ngày của dân và thật nghiêm khắc trừng trị những kẻ cố tỉnh chạy theo lợi nhuận mà đầu độc người tiêu dùng, là đã góp phần tiêu diệt thực phẩm bẩn rồi.

SỰ NHÂN BẢN CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA.


Trong những năm gần đây, lũ chống cộng cực đoan và chống cộng cho chúa ở hải ngoại, cũng như bọn bại hoại dân tộc nhà thờ giòng chúa cứu thế trong nước ,luôn rêu rao lừa bịp thế hệ thanh niên 8-9X rằng, cái chế độ VNCH trước 1975 là một "chế độ nhân bản"!, đẩy ắp dân chủ, nhân quyền....song những điều đó thực sự như thế nào, những vấn đề cụ thể như sau sẽ phản ánh phần nào về chế độ đó:
 Về chế độ VNCH được hình thành như thế nào? Đây là một chế độ do liên Minh Mĩ - vatican dựng lên vào cuối năm 1954. Ngày 16-8-1954, quân Việt Nam Cộng hoà đã nổ súng trấn áp đoàn biểu tình ở thị xã Gò Công, bắn chết 8 người và 162 người bị thương. Năm 1956 khi Ngô Đình Diệm lên nắm ngôi Tổng thống bằng những lá phiều gian lận và cưỡng bức cử tri ông ta ban hành một bản Hiến pháp chứa đựng những điều nhân bản nhất của chế độ VNCH Điều 7 Hiến pháp quy định "Những hành vi có mục đích phổ biến hoặc thực hiện một cách trực tiếp hay gián tiếp chủ nghĩa cộng sản dưới mọi hình thái đều trái với các nguyên tắc ghi trong Hiến pháp". Việt Nam Cộng hòa "kêu gọi" những người cộng sản đang hoạt động bí mật ly khai tổ chức, ra "hợp tác" với chế độ mới đồng thời cưỡng ép những người bị bắt từ bỏ chủ nghĩa cộng sản. Ngày 6/5/1959, Quốc hội Việt Nam Cộng Hoà thông qua luật số 91 mang tên Luật 10-59, sau đó được tổng thống Việt Nam Cộng hòa là Ngô Đình Diệm ký ban hành. Luật này quy định việc tổ chức các Tòa án quân sự đặc biệt với lý do "xét xử các tội ác chiến tranh chống lại Việt Nam Cộng Hòa", mục đích nhằm tiến hành thanh trừ những người cộng sản ở miền Nam Việt Nam. Theo luật 10-59, bị can có thể được đưa thẳng ra xét xử mà không cần mở cuộc điều tra, án phạt chỉ có hai mức: tử hình hoặc tù khổ sai, xét xử kéo dài 3 ngày là tối đa, không có ân xá hoặc kháng án; dụng cụ tử hình có cả máy chém. Sau khi luật này được ban hành, chính quyền Diệm đẩy mạnh truy quét, bắt bớ, khủng bố, đặc biệt là các đảng viên Đảng cộng sản. Trong thời gian từ 1955 đến 1960, theo số liệu của Việt Nam Cộng hoà có 48.250 người bị tống giam, khoảng 24.000 người bị thương, 80.000 người bị hành quyết hay bị ám sát, 275.000 người bị cầm tù, thẩm vấn hoặc với tra tấn, và khoảng 500.000 người bị đưa đi các trại tập trung Điều này đã làm biến dạng mô hình xã hội, suy giảm niềm tin của dân chúng vào chính phủ Ngô Đình Diệm và đẩy những người kháng chiến (Việt Minh) vào rừng lập chiến khu. Không chỉ loại trừ cộng sản, Tổng thống Ngô Đình Diệm còn bỏ tù một số chính trị gia đối lập. Với những hành động của Diệm như thế, nhưng Hoa Kỳ không phản đối việc này và Hoa Kỳ đã ủng hộ Ngô Đình Diệm thiết lập một chế độ cực quyền. Chính sách ủng hộ này của Hoa Kỳ tạo mầm mống cho hậu quả nghiêm trọng trong nền chính trị miền Nam. Tướng Edward Lansdale - phụ trách chiến tranh tâm lý ở miền Nam lúc này đã nhìn thấy nguy cơ trong chính sách của Ngô Đình Diệm, ông tìm cách thuyết phục đại sứ Hoa Kỳ Frederick Nolting can ngăn anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm xây dựng một nhà nước cực quyền ở Nam Việt Nam vì chính sách của họ sẽ đưa đến tình trạng chia rẽ giữa những người có tinh thần dân tộc và cùng chung mục tiêu chống Cộng. với việc loại trừ các đối thủ chính trị đã tạo nên một khoảng trống chính trị ở Nam Việt Nam khiến Hoa Kỳ không có sự lựa chọn nào khác là ủng hộ chính quyền hiện hữu. Sau đó bật đèn xanh cho các tướng lĩnh của chế độ này lất đổ chế độ anh em họ Ngô. 
Nói như vậy nền đệ nhất cộng hòa này ở miền Nam VN quá nhân bản nên mới bị lật đổ và kết cục của họ là bị đồng bọn giết như con chó không nghe lời chủ.
Sau khi anh em Ngô đình Diệm bị lất đổ và bị thủ tiêu, Nguyễn văn Thiệu lên làm tổ thống nền đệ nhị Công hòa song chế độ này cũng chẳng tốt hơn nền đệ nhất công hòa của Diệm.  Khi Chính phủ Mĩ đổ trên 500 ngàn quân và 300 lính chư hầu (đại hàn, Tân tay lan,Úc đại lợi), ..vào miền nam Việt nam,thì sự tàn bạo của nền đệ nhị VNCH" Nhân bản" khủng khiếp không kém. Chúng tùy tiện bắn giết, một cách tàn bạo vào người dân vô tội. Trong cuốn American Terrorism and Genocide of the Vietnamese People, 1945-1974 tác giả người Mĩ đã Viết rằng:
* Những tội phạm chiến tranh thuộc binh chủng Thủy, Lục, Không quân Hoa Kỳ đã tàn sát 3 triệu người ở Việt Nam, trong rất nhiều nơi như Mỹ Lai. Hầu hết các nạn nhân là đàn bà và trẻ con. CIA có ngay cả một chương trình khủng bố chính thức của quốc gia Mỹ ở Việt Nam, được biết là “Chiến Dịch Phụng Hoàng” hay “Kế Hoạch Phụng Hoàng”. Kế hoạch Phụng Hoàng còn được biết dưới tên “Kế Hoạch Ám Sát”. Qua Kế Hoạch Phụng Hoàng, nhiều trăm ngàn người đã bị tra tấn đến chết trong những “trung tâm thẩm vấn” trên khắp Nam Việt Nam. Những trung tâm tra tấn này được dựng lên bởi Mỹ rõ ràng cho mục đích đó. Phụ nữ luôn luôn bị hãm hiếp như là một phần của tra tấn trước khi bị giết. Khủng bố, hãm hiếp và giết người hàng loạt một cách đại qui mô trên khắp miền quê là chính sách của tập thể Lục Quân, Không Quân, Thủy Quân Lục Chiến, Thủy Quân Hoa Kỳ. Cuộc tàn sát ở Mỹ Lai là một chiến dịch trong Kế Hoạch Phụng Hoàng. Nhận định của một giới chức Ki-tô Giáo rất rõ ràng trong cuộc chiến ở Việt Nam với những motto: “Kill a gook for God” viết trên mũ sắt của lính Mỹ...


* Quá nhiều “con em của chúng ta” đã phạm phải những tội ác cuồng dâm chống nhân loại. Lính Mỹ tra tấn tù binh. Lính Mỹ hiếp người qua đường hậu môn, hãm hiếp và bạo sát đàn bà và con gái. Lính Mỹ tàn sát toàn thể đàn ông, đàn bà, trẻ con trong nhiều làng – kể cả con nít - ở nhiều, nhiều nơi như Mỹ Lai và Thanh Phong.
* John Kerry, Trung Úy Thủy Quân, làm chứng trước Ủy Ban Ngoại Giao của Thượng Viện năm 1971 như sau: “Tôi muốn nói rằng vài tháng trước ở Detroit chúng tôi có một cuộc điều tra trong đó có 150 quân nhân đã được giải ngũ trong danh dự đã làm chứng cho những tội ác chiến tranh phạm ở Đông Nam Á. Họ nói những câu chuyện của thời đó là chính họ đã hãm hiếp, cắt tai, chặt đầu, kẹp giây điện từ những bộ máy truyền tin vào nhưng cơ quan sinh dục rồi quay điện, chặt chân tay, làm nổ tan xác, bắn chơi vào các thường dân, triệt hạ cả làng theo kiểu của Thành Cát Tư Hãn, bắn trâu bò, chó, làm trò chơi, đầu độc các kho lương thực và hầu như là tàn phá toàn diện miền quê Nam Việt Nam, ngoài sự tàn phá thông thường của chiến tranh và sự tàn phá thông thường và đặc biệt của những cuộc bỏ bom trên đất nước này.”