CẦN LÊN ÁN NGHIÊM KHẮC NHỮNG HÀNH VI TRÁI ĐẠO LÝ

Thông tin xuyên tạc, bịa đặt có thể gây ra những tác động ghê gớm đối với đời sống mỗi cá nhân và xã hội. "Sự thật không chỉ bị dối trá xâm hại; nó còn bị xúc phạm bởi sự câm lặng, song khi cộng đồng lên tiếng đấu tranh với sự dối trá đó thì chắc chắn sẽ không ai tin kẻ dối trá đó nữa". Không khó để nhận ra rằng, trong những đơn thư, bài viết mà những kẻ mạo danh núp bóng tố cáo nhằm chia rẽ nội bộ, ít nhiều có những thông tin có thể bị lộ, lọt từ chính một số cá nhân, tổ chức. Có thể do vô tình hay cố ý, những người để thông tin bị tán phát ban đầu chỉ do mục đích cá nhân, nhưng đã không lường trước tác hại nghiêm trọng của nó khi gặp những đối tượng phản động từ bên ngoài lắp thêm “liều phóng”.  Để rồi, từ những nội dung không nhằm xây dựng mà nhằm chia rẽ, đấu đá nội bộ, vấn đề được “chuyển hóa” thành những câu chuyện chống phá thể chế, ý thức hệ, chống phá Đảng, Nhà nước.
Cảnh giác, đấu tranh, lên án đối với hành vi của những kẻ giả danh, mạo danh có âm mưu đen tối hòng chống phá mục tiêu của cách mạng Việt Nam là trách nhiệm của mỗi công dân yêu nước chân chính. Qua đó, chúng ta cùng kiên quyết đưa những hành vi đó ra trước ánh sáng công luận để cơ quan pháp luật xử lý nghiêm minh, góp phần giữ vững ổn định về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong tình hình hiện nay.


CẦN XỬ LÝ MẠNH TAY HƠN NỮA VỀ PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI NHỮNG KẺ GIẢ DANH, MẠO DANH

Để đẩy lùi những hành vi giả danh, mạo danh, bịa đặt vu khống, chúng ta, nhất là các cơ quan chức năng cần phải kịp thời phân tích, vạch rõ những âm mưu, thủ đoạn, thấy rõ được hậu quả, tính chất nguy hiểm của mỗi hành vi mạo danh, giả danh và có biện pháp xử lý nghiêm minh, kiên quyết.
Về mặt pháp luật, hiện nay chúng ta đã có nhiều quy định cụ thể đối với loại tội phạm giả danh, mạo danh.  Điều 265, Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định về tội giả mạo chức vụ, cấp bậc cho thấy, tội phạm này xâm phạm trật tự quản lý hành chính Nhà nước, gây mất uy tín của cơ quan Nhà nước, xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, tổ chức hoặc công dân. Điều luật này quy định hai hành vi là “giả mạo chức vụ”, “giả mạo cấp bậc”. Chỉ cần người phạm tội thực hiện một trong hai hành vi trên đã đủ cấu thành tội phạm. Người vi phạm có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm. Điều 339 – Bộ Luật Hình sự 2015 cũng quy định rõ mức xử phạt tương tự: “Người nào giả mạo chức vụ, cấp bậc, vị trí công tác thực hiện hành vi trái pháp luật nhưng không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm”. Điều 12 Luật Công nghệ thông tin năm 2006 nghiêm cấm xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của công dân. Nghị định số 174/2013/NĐ-CP ngày 3-11-2013 của Chính phủ quy định hành vi: “Cung cấp, trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác” sẽ bị xử phạt tiền từ 10 triệu đến 20 triệu đồng".

Song trên thực tế, thời gian qua, nhiều đối tượng giả danh, mạo danh liên quan đến nhóm tội xâm phạm an ninh quốc gia chưa được xử lý nghiêm minh, dẫn đến có dấu hiệu nhờn luật; nhất là với những đối tượng sử dụng internet để “ném đá giấu tay”. Dư luận cho rằng, để đẩy lùi hiện tượng trên, phải có những quy định chặt chẽ hơn, hoàn thiện các quy định của pháp luật, đề ra các chế tài nghiêm khắc hơn, khung hình phạt cao hơn. Việc xét xử các đối tượng vi phạm cần được thực hiện tại các phiên tòa công khai, lưu động để mang tính giáo dục, răn đe rộng rãi trong xã hội. Cần phải có chế tài chặt chẽ buộc đối tượng vi phạm phải công khai xin lỗi và bồi thường thiệt hại đối với không chỉ người bị xuyên tạc, vu khống trong các đơn thư tố cáo mạo danh mà phải xin lỗi, bồi thường thiệt hại đối với cả cá nhân, tổ chức bị mạo danh.

ĐẤU TRANH CHỐNG CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI PHỦ NHẬN SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Hiện nay,trên mạng internet vẫn xuất hiện nhiều thông tin thù địch, trái chiều, các blog có nội dung xấu rêu rao tư tưởng dân chủ tư sản, bôi son, tô hồng về những thành tựu của các nước tư sản theo chế độ đa nguyên, đa đảng, hay trực tiếp nói xấu, bôi nhọ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta.
Có thể thấy rằng, đây là một luận điệu hết sức nguy hiểm, bởi nó cố tình đánh đồng giữa vấn đề đa nguyên, đa đảng với dân chủ và phát triển. Với những người có nhận thức chính trị không vững vàng có thể dễ dàng bị đánh lừa bởi luận điệu này, từ đó cổ súy cho việc thiết lập cơ chế đa nguyên, đa đảng tại Việt Nam.

Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng, đó là nhận định không chỉ của Đảng, nhân dân ta mà còn là của bạn bè quốc tế. Thực tiễn lịch sử cho thấy, quá trình ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu khách quan. Sự ra đời đó không chỉ là ý chí đơn thuần của các nhà hoạt động cách mạng mà là sản phẩm của lịch sử. Từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là đội tiên phong, lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam, là người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Qua sự “sàng lọc” khắc nghiệt của lịch sử những thập niên đầu thế kỷ XX, dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã lựa chọn Đảng Cộng sản Việt Nam là người duy nhất dẫn dắt mình đi đến tương lai hạnh phúc. Như vậy, cần khẳng định rằng, Việt Nam đã từng có thời kỳ lịch sử nhiều đảng cùng tham gia lãnh đạo cách mạng, nhưng chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam là cách mạng nhất, chân chính nhất, đủ bản lĩnh lãnh đạo cách mạng nước ta. Chế độ chính trị một đảng lãnh đạo là do nhân dân ta lựa chọn từ chính những trải nghiệm trong quá trình lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, kháng chiến chống xâm lược và trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự nghiệp cách mạng nước ta đã đem lại những quyền cơ bản nhất cho quốc gia, dân tộc và toàn thể nhân dân Việt Nam thực sự được làm chủ cuộc sống của mình, được sống trong “tự do, hạnh phúc”.

NGĂN CHẶN ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HOÁ NGOẠI LAI ĐỐI VỚI GIỚI TRẺ



Văn hóa là gốc rễ, là cội nguồn làm nên sức mạnh nội sinh và sức sống của mỗi dân tộc, là cơ sở để nhận diện giữa dân tộc này với dân tộc khác. Quá trình phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, bên cạnh tiếp thu, hấp thụ những giá trị, tinh hoa văn hóa của nhân loại, nước ta đang phải đối mặt với một thách thức, nguy cơ không nhỏ.
Những năm gần đây, nhiều giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của ông cha bị đảo lộn, nhiều hành vi phản văn hóa mới xuất hiện với tần suất lớn, mật độ dày và nhất là môi trường văn hóa xã hội đang bị “ô nhiễm nặng nề” đã và đang trở thành nỗi bất an đối với vận mệnh quốc gia, dân tộc và tương lai đất nước. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng này là do cuộc “xâm lăng văn hóa” nhằm vào nước ta đang tấn công từ nhiều phía, từ nhiều con đường, thông qua nhiều hình thức, âm mưu, thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc.
Cuộc xâm lăng văn hóa diễn ra với nhiều hình thức và biểu hiện khác nhau. Những biểu hiện của vấn nạn này trong giới trẻ dễ thấy nhất là một bộ phận sa đà vào lối sống “gấp”, sống “thử”, sống đề cao cái tôi cá nhân của mình. Nhiều thanh, thiếu niên nghiện trò chơi điện tử, nghiện xem phim bạo lực đến mức báo động, các vụ ly hôn trong gia đình trẻ, các vụ vi phạm pháp luật ở tuổi vị thành niên và thanh niên liên tục gia tăng. Rất nhiều người trẻ đã bị lôi kéo, mê hoặc đến mức “phát cuồng” một số ca sĩ, diễn viên, ngôi sao bóng đá từ nước ngoài mà họ coi là thần tượng, một số bộ phim vừa ra đời đã bị công luận tiến bộ cảnh báo là nhảm nhí, thảm họa… và còn rất nhiều những vấn đè gây bức xúc trong xã hội.
Tất cả những biểu hiện nêu trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, trong đó, căn nguyên vừa sâu xa, vừa trực tiếp là do một bộ phận người trẻ đủ kiến thức và sự tỉnh táo cần thiết nên đã bị choáng ngợp trước các những cuộc tiến công của văn hóa ngoại lai. Trong khi đó, các thế lực thù địch tìm mọi cách, lợi dụng mọi sơ hở về chính sách, luật pháp của Việt Nam và lợi dụng tối đa những mặt trái của internet để cung cấp, truyền bá các tư tưởng lai căng, các sản phẩm văn hóa, thông tin độc hại vào nước ta. Với phương thức “mưa dầm thấm lâu”, thông qua sản phẩm văn hóa, thông tin xấu độc xuất hiện ngày càng nhiều, các thế lực thù địch muốn tiêm nhiễm vào tâm hồn, suy nghĩ công chúng, nhất là giới trẻ, qua đó làm dao động niềm tin, chao đảo nhận thức, từng bước thay đổi tư tưởng, lối sống, tâm lý, hành vi của họ. 
Trước thực tế không thể coi nhẹ, xem thường đó, vấn đề cấp bách hiện nay là chúng ta phải thường xuyên, tích cực vun đắp, nâng cao sức đề kháng văn hóa cho các cấp, các ngành và toàn xã hội. Sức đề kháng văn hóa chính là tăng cường khả năng phòng ngừa, bảo vệ, chống lại các sản phẩm văn hóa, thông tin độc hại từ bên ngoài xâm nhập vào nước ta. Lịch sử đã minh chứng rằng, sức đề kháng văn hóa có vai trò cực kỳ quan trọng đối với việc giữ gìn, bảo vệ và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nếu sức đề kháng văn hóa non nớt, nhu nhược, yếu kém sẽ là mảnh đất màu mỡ cho các “vi rút văn hóa” độc hại có cơ hội nảy sinh, lây lan, làm xói mòn tâm hồn, cốt cách văn hóa dân tộc. Ngược lại, nếu sức đề kháng văn hóa mạnh mẽ, cường tráng sẽ góp phần làm cho văn hóa Việt Nam không những giữ gìn được gốc gác, cội nguồn, bản sắc của mình, mà còn có thể đẩy lùi, tiêu trừ, loại bỏ được các tạp chất gây hại cho môi trường văn hóa dân tộc.

Vì vậy, có thể khẳng định rằng, việc huy động các cấp, các ngành và toàn xã hội cùng chung tay góp sức bồi đắp, nâng cao sức đề kháng văn hóa cho dân tộc chính là bảo đảm cho tư thế, bản lĩnh, sức sống và sức mạnh văn hóa Việt Nam luôn trường tồn, bền vững trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay. 

LÒNG QUYẾT TÂM VÀ KHÍ THẾ SÔI NỔI CỦA ĐOÀN VIÊN THANH NIÊN VIỆT NAM

       
       Xung kích xây dựng và bảo vệ Tổ quốc           
   Trong quân đội, ĐVTN là lực lượng đông đảo, trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ. Quán triệt sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Nghị quyết Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ XI, tuổi trẻ quân đội nguyện phát huy vai trò nòng cốt, xung kích, sáng tạo, cùng với tuổi trẻ cả nước quyết tâm bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới.
    Tổ chức đoàn các cấp trong toàn quân tiếp tục quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước về bảo vệ Tổ quốc, nhất là hệ thống quan điểm, tư tưởng, phương châm chỉ đạo xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được xác định trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nghị quyết TW 8 (khóa IX), Nghị quyết 28 (khóa XI) về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ X, Nghị quyết Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ XI. Cùng với đó, tổ chức Đoàn sẽ tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với thực hiện Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”; tập trung tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống trong sạch, lành mạnh, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng; nâng cao cảnh giác cách mạng, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
    Tuổi trẻ quân đội hướng trọng tâm vào đẩy mạnh thực hiện các phong trào hành động cách mạng, phát huy vai trò xung kích, sáng tạo của ĐVTN trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của toàn quân, nhất là việc khó, việc mới, việc quan trọng, gắn kết chặt chẽ với các phong trào của tuổi trẻ cả nước; nâng cao chất lượng, hiệu quả phối hợp hoạt động với tổ chức đoàn địa phương, đơn vị kết nghĩa, xây dựng cơ sở chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh; xung kích tham gia phát triển kinh tế-xã hội theo phương châm kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, khu vực trọng điểm.
     Coi trọng giáo dục lý tưởng và rèn luyện đạo đức, lối sống
   Cùng với những kết quả đạt được, công tác giáo dục tư tưởng Đoàn viên thanh niên (ĐVTN) vẫn còn những hạn chế, như: Một số bộ phận giới trẻ giảm sút niềm tin, thiếu ý thức chấp hành pháp luật, sống thực dụng, thiếu lý tưởng, xa rời truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc; tình trạng tội phạm và tệ nạn xã hội trong giới trẻ có nhiều diễn biến phức tạp…   Để nâng cao hiệu quả giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho ĐVTN, cần tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, coi đây là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, liên tục trong công tác giáo dục của Đoàn; nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, truyền thống cách mạng, lòng yêu nước, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc, bồi đắp và củng cố niềm tin của TTN đối với sự lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên CNXH. Trong quá trình tổ chức giáo dục, kết hợp sự tham gia, phối hợp có trách nhiệm của ngành giáo dục, gia đình, đoàn thể và toàn xã hội; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên; chủ động nắm bắt, dự báo tình hình tư tưởng, định hướng dư luận xã hội trong ĐVTN, nhất là ở các địa bàn nhạy cảm.  
   Hết lòng cùng phấn đấu tạo cơ chế cung cấp thông tin thường xuyên, kịp thời để mỗi đoàn viên trong tổ chức truyền tải thông điệp giáo dục ĐVTN. Bên cạnh đó, chú trọng phát huy đội ngũ cán bộ Đoàn ở cơ sở, coi đó là mắt xích kết nối ĐVTN, đưa các nội dung phong trào lan tỏa mạnh mẽ; xây dựng những kênh thông tin hợp lý, cập nhật, nắm rõ xu hướng giới trẻ để tạo nên chuỗi thông tin trọng tâm, đặc sắc, thu hút nhiều đối tượng ĐVTN tham gia. Luôn luôn đề cao vai trò tự giáo dục, tự rèn luyện để không ngừng hoàn thiện nhân cách.
       Xây dựng các công trình thanh niên thiết thực
   Công trình thanh niên (CTTN) là sản phẩm, đồng thời là phương thức hoạt động của Đoàn nhằm tạo môi trường phát huy vai trò xung kích, tình nguyện, sáng tạo của tuổi trẻ trong thực hiện nhiệm vụ; tham gia giải quyết các vấn đề an sinh xã hội, chung sức cùng cộng đồng; tham gia phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Trong quá trình triển khai thực hiện CTTN, phải tạo môi trường thuận lợi để ĐVTN rèn luyện, cống hiến; khơi dậy tinh thần, trách nhiệm của tuổi trẻ trong việc đóng góp sức lực, trí tuệ, nhiệt huyết cho quá trình phát triển của địa phương, cơ sở; đồng thời thể hiện sự sáng tạo, tính xung kích, dám nghĩ, dám làm của ĐVTN trong tham gia thực hiện công trình. Thu hút, tập hợp đông đảo ĐVTN tham gia, góp phần thực hiện tốt các phong trào, cuộc vận động của tổ chức đoàn, hội; qua đó nâng cao vị thế của tổ chức tại địa phương, đơn vị.   
   Thường xuyên quán triệt tới các tổ chức Đoàn trực thuộc, phải xây dựng CTTN xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của địa phương, đơn vị; xây dựng kế hoạch chi tiết trong tổ chức thực hiện CTTN tình nguyện. Cần tăng cường tổ chức các hoạt động giao lưu, tiếp sức công trường, tổ chức lễ kết nạp đoàn viên, đảng viên mới và các hoạt động phụ trợ khác để góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện các CTTN./. 

Đấu tranh làm thất bại âm mưu "phi chính trị hóa" Quân đội

“Phi chính trị hóa” Quân đội là một âm mưu, thủ đoạn nham hiểm trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam, với mục đích tách Quân đội nhân dân Việt Nam ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, làm cho Quân đội biến chất, không còn là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị tin cậy của Đảng và Nhà nước. Bởi vậy, đấu tranh làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội là một nhiệm vụ cấp thiết hiện nay.
 Thuật ngữ “phi chính trị hóa” quân đội xuất hiện vào cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX. Nội dung cơ bản của luận điệu đó là: quân đội trung lập, đứng ngoài chính trị, không chịu sự lãnh đạo, chi phối của bất cứ chính đảng, lực lượng chính trị nào; quân đội chỉ làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ lợi ích của nhân dân. Thoạt nghe, thấy có vẻ có lý. Người nhẹ dạ cả tin dễ lầm tưởng rằng, đây là một phát kiến mới, với suy nghĩ đơn giản là quân đội “đứng giữa”, không phụ thuộc vào bất kỳ ai thì mọi hành động sẽ công tâm, khách quan, phù hợp với lợi ích của nhân dân hơn (?). Tuy nhiên, nghiên cứu kỹ bản chất của vấn đề và những gì diễn ra trong thực tiễn ta càng hiểu và thấy rõ “tim đen” của những người “sáng tạo” ra luận điệu phản khoa học và phản động này. Thực chất của luận điệu “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch không có gì khác hơn là làm cho Quân đội ta mất phương hướng chính trị, từ bỏ mục tiêu chiến đấu, bị vô hiệu hóa. Thực tiễn những năm 90 của thế kỷ XX, các thế lực thù địch đã từng thành công với âm mưu, thủ đoạn này. Đó là làm cho Quân đội Liên Xô và các nước Đông Âu - một lực lượng hùng mạnh, trung thành với mục tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động đã bị “phi chính trị hóa”, tự xóa bỏ nguyên tắc xây dựng quân đội về chính trị, từ bỏ cơ chế Đảng Cộng sản lãnh đạo quân đội, không còn là lực lượng chính trị, công cụ bạo lực sắc bén, tin cậy của Đảng Cộng sản và Nhà nước. Vì thế, khi đất nước Xô-viết và các nước Đông Âu xảy ra biến cố chính trị, Quân đội đã đứng ngoài cuộc, chế độ XHCN sụp đổ. 

Có thể khẳng định, thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội là một chiêu bài, một âm mưu hết sức nguy hiểm, thâm độc trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Xét về nội dung tuy không mới, nhưng về thủ đoạn, cách thức tiến hành thì có sự thay đổi, điều chỉnh so với trước. Chúng triệt để lợi dụng việc nước ta hội nhập, mở cửa để thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội bằng mọi hình thức hết sức tinh vi. Bởi vậy, hơn lúc nào hết, chúng ta phải đề cao cảnh giác, tích cực và chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của chúng; tập trung xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, hoàn thành tốt nhiệm vụ trong mọi tình huống.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO “DĨ BẤT BIẾN, ỨNG VẠN BIẾN” HIỆN NAY

Một trong những di sản tư tưởng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta là bài học về phương pháp ngoại giao: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Việc nghiên cứu, vận dụng phương pháp mang tính nguyên tắc chỉ đạo này trong công tác đối ngoại hiện nay là rất cần thiết, quan trọng. “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” là lấy cái không thể thay đổi (bất biến) để ứng phó với muôn sự thay đổi (vạn biến). Theo đó, cái “bất biến” là lợi ích của quốc gia, dân tộc, mà độc lập dân tộc, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc,… là cốt lõi. Cái “vạn biến” là cách ứng phó tài tình, khéo léo, linh hoạt; kết hợp hài hòa giữa mềm dẻo và kiên quyết, giữa chiến lược và sách lược, giữa cương và nhu, giữa chủ động và sáng tạo trong những tình huống cụ thể, mà dù trong hoàn cảnh nào, khó khăn đến đâu cũng phải giữ vững nguyên tắc để đạt cho được cái bất biến. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt”. Để thực hiện được “ứng vạn biến”, điều quan trọng là phải đánh giá đúng tình hình quốc tế và sự tác động đối với nước ta, cả mặt thuận và mặt bất lợi. Đặc biệt, về sách lược phải xác định được giới hạn của sự nhân nhượng để đề ra chính sách, phương pháp, cách thức tiến hành phù hợp, hiệu quả, đảm bảo giữ vững nguyên tắc chiến lược:
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Bởi vậy, về lâu dài, ta phải mạnh lên cả về mặt chính trị và kinh tế, có vị thế quan trọng trên trường quốc tế thì tiếng nói trong ngoại giao mới có trọng lượng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to, tiếng mới lớn”.  Thực hiện phương pháp ngoại giao “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng, Nhà nước ta đã đề ra các chủ trương, đường lối chiến lược, sách lược ngoại giao phù hợp, vừa đáp ứng nhiệm vụ trước mắt, vừa có tính chiến lược lâu dài.  Hiện nay, tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường; các nước lớn có sự điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau. Do đó, việc nghiên cứu, vận dụng phương pháp ngoại giao “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Trong phạm vi bài biết, tác giả đề xuất mấy vấn đề có thể tham khảo, vận dụng:

Trước hết, cần nhận thức, xác định rõ cái “bất biến”, cũng như cái “vạn biến” trong quan hệ quốc tế hiện nay. Cái bất biến, xuyên suốt, không có gì khác, đó chính là lợi ích quốc gia, dân tộc, là độc lập dân tộc, chủ quyền, sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; là chế độ xã hội chủ nghĩa, vai trò, quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tiếp tục “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển” là một nguyên tắc bất biến trong tình hình hiện nay. Cùng với đó, chúng ta cần phát huy sức mạnh tổng hợp, kết hợp chặt chẽ giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.  Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy, có thực lực mạnh, thì ngoại giao sẽ thắng lợi; trong đó, đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại là những người giữ vai trò quan trọng. Vì vậy, Đảng, Nhà nước cần “chăm lo đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại; bồi dưỡng kiến thức đối ngoại cho cán bộ chủ chốt các cấp” đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Qua đó, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, mục tiêu của công tác đối ngoại trong tình hình hiện nay./.

ĐỪNG ĐÁNH MẤT PHẨM CHẤT TỐT ĐẸP CỦA NGƯỜI CỘNG SẢN

Giản dị trong lối sống không chỉ là một đặc trưng làm nên nét đẹp văn hóa của dân tộc Việt Nam, mà còn là một giá trị đạo đức của con người mới xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, những năm gần đây, do thiếu tu dưỡng, rèn luyện, một bộ phận cán bộ, đảng viên đang tự mình đánh mất tính giản dị vốn là phẩm chất tốt đẹp của người cộng sản. Một trong những nét đặc trưng làm nên bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam đã được Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) của Đảng chỉ ra: “Sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống”. Tính giản dị trong lối sống của con người Việt Nam bắt nguồn từ truyền thống văn hóa của một dân tộc sinh ra, lớn lên và gắn bó với nền văn minh lúa nước, gắn kết với cộng đồng làng xã. Thời xa xưa, do nghề trồng lúa nước phải phụ thuộc phần lớn vào thiên nhiên, nên người Việt luôn có ý thức tích cốc phòng cơ, chi tiêu tiết kiệm, sinh sống đạm bạc, giản dị, phòng khi mùa màng thất bát hay thời kỳ giáp hạt khó khăn vẫn có của ăn của để nhằm tránh rơi vào tình cảnh đói khát.
Theo quan niệm của ông cha ta, tính giản dị trong lối sống không phải là “gò” mình vào cuộc sống kham khổ, cũng không phải là thói keo kiệt bủn xỉn đến mức giống anh chàng “đến chết vẫn hà tiện” như một câu chuyện ngụ ngôn, mà đó chính là một phương châm sống lành mạnh, một nếp sống thanh cao, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của bản thân, gia đình và không rời xa những chuẩn mực đạo đức chung của cộng đồng. Từ xưa đến nay, những bậc chí sĩ, túc nho, văn nhân, anh hào đều lấy sự thanh tao trong cuộc sống làm niềm vui, coi tính giản dị trong lễ tiết, tác phong và nếp sống làm trọng. Nhiều vị quan thanh liêm còn sống mãi với nhân dân, trường tồn trong lòng dân tộc bởi họ có một điểm chung: Đó là lòng yêu nước thương dân, tự nguyện hòa mình vào cuộc sống cần lao của người dân, không bao giờ sống hưởng thụ, xa hoa trong khi đời sống đồng bào còn nhiều gian khó. Thời nay, khi kinh tế-xã hội đất nước phát triển, của cải vật chất dồi dào hơn, nhân dân nói chung, đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng không nhất thiết phải sống tằn tiện như thời bao cấp. Tuy vậy, cán bộ, đảng viên cũng không nên và không được phép sống xa hoa, cách biệt với nhân dân, bởi sống như vậy không chỉ là xa rời những giá trị truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc, mà còn trái với đạo đức cách mạng của người cộng sản. Điều cảnh báo mà Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII của Đảng đã chỉ ra: Một bộ phận cán bộ, đảng viên sống “thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc của người dân” có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ yếu là cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện; sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất.
Việc Đảng ta nhận định một bộ phận cán bộ, đảng viên sống “thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn của người dân” là một trong những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống là có cơ sở. Bởi sự thờ ơ, vô cảm, thái độ bàng quan, lạnh lùng, thiếu đồng cảm và tình thương yêu đồng loại là hoàn toàn xa lạ, trái ngược với giá trị đạo đức của con người. Đối với cán bộ, đảng viên mà thờ ơ, vô cảm lại càng đáng phê phán, vì đây là “triệu chứng” làm cho căn bệnh ích kỷ cá nhân có cơ hội lên ngôi và cũng là mầm mống của sự sa ngã, tha hóa về phẩm chất đạo đức cách mạng. Thời gian qua, không khó để nhận diện được những biểu hiện sống thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm với dân của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Nếu thấu hiểu đời sống còn nhiều khó khăn của người dân, thì không có tình trạng cán bộ ở nhiều địa phương sa đà vào ăn uống, nhậu nhẹt, tiếp khách lãng phí, thậm chí có xã nghèo ghi nợ chủ quán hàng chục triệu đồng. Nếu hiểu lòng dân, cũng khó diễn ra cái cảnh đám cưới rình rang, đình đám, phô trương của con “ông bí thư nọ, bà chủ tịch kia” giữa thanh thiên bạch nhật. Nếu thực tâm sẻ chia với đời sống lam lũ của bao người dân quanh năm đầu tắt mặt tối với ruộng đồng và quý trọng từng thước đất trồng lúa, trồng cây của bà con nông dân, thì cũng không có chuyện mấy ông cán bộ sở, ngành, doanh nghiệp ở một số địa phương (Yên Bái, Đắc Lắc, Đồng Nai, Sóc Trăng…) xây dựng những công trình tư gia hoành tráng trên đất lâm, nông nghiệp. Hay gần đây, câu chuyện ồn ào về con gái một cán bộ nguyên lãnh đạo cao cấp ngành ngân hàng sở hữu một biệt phủ rộng hơn hai nghìn mét vuông ở huyện Bình Chánh (TP Hồ Chí Minh) khiến dư luận không khỏi hoài nghi về nguồn gốc xuất xứ khối tài sản “khủng” của một người phụ nữ mới 22 tuổi; đồng thời dư luận cũng đặt dấu hỏi về phẩm chất liêm chính, đức tính giản dị của một cán bộ từng công tác lâu năm trong một ngành quan trọng của đất nước.
Có lẽ không ngẫu nhiên mà trong Hội nghị xúc tiến đầu tư tại tỉnh Sơn La tổ chức tháng 7-2017, sau khi kêu gọi các nhà đầu tư, các doanh nghiệp hướng về miền núi đầu tư, hỗ trợ, tạo điều kiện phát triển cho các tỉnh vùng cao, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã bày tỏ trăn trở khi nghe các thông tin về lối sống phô trương, lãng phí, gây nhiều phản cảm của một bộ phận cán bộ, đảng viên ở một vài tỉnh miền núi. Cũng từ diễn đàn này, Thủ tướng đã “đánh động lương tâm” những cán bộ, đảng viên đang có biểu hiện trượt dài vào lối sống xa hoa cần phải nhớ đến những câu chuyện cảm động về tinh thần hy sinh, nghĩa tình cao cả mà các thầy cô giáo ở những vùng lũ lụt đã hết lòng vì học sinh thân yêu, hết lòng vì thế hệ tương lai của đất nước; nhớ đến hàng vạn hộ dân nghèo ở vùng sâu, vùng xa vẫn đang phải lo toan vất vả để kiếm kế sinh nhai, chắt chiu từng đồng tiền để nuôi con ăn học. Vẫn biết, cán bộ, công chức, đảng viên cũng là con người, do vậy ai cũng có nhu cầu thiết thân như bao người dân trong xã hội. Nhưng cán bộ, công chức, đảng viên có sứ mệnh cao cả là cùng các cấp ủy, chính quyền chăm lo cuộc sống, công ăn việc làm, học hành, sức khỏe… của người dân, nên phải có trách nhiệm với từng “đồng tiền bát gạo” mà người dân đã đóng góp, nuôi dưỡng bản thân mình. Mặt khác, cán bộ, công chức là hình ảnh thu nhỏ của bộ máy công quyền, do đó phải có trách nhiệm là tấm gương soi chiếu, dẫn dắt toàn dân hướng về và thực hiện những điều tốt đẹp, văn minh để góp phần thúc đẩy xã hội phát triển tiến bộ. Muốn vậy, mỗi cán bộ, đảng viên tự mình thực hiện “cần, kiệm, liêm, chính” như lời Bác Hồ đã dạy; đồng thời luôn biết tiết chế, kiểm soát bản thân để không bị sa ngã, quyến rũ bởi những cám dỗ vật chất tầm thường. Rèn luyện nếp sống thanh cao, giản dị; hòa chung với nhịp sống cần lao của người dân; cùng thấu hiểu, sẻ chia với những khó khăn của đồng bào; lắng nghe nỗi niềm lo lắng của bà con và tìm cách tháo gỡ, giải quyết những vướng mắc từ cơ sở, không chỉ góp phần tôn lên vẻ đẹp nhân cách của người cán bộ, đảng viên, mà đó còn là việc làm thiết thực để góp phần củng cố, thắt chặt mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân và xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh về đạo đức.


Cần lên án bài viết của tác giả Song Chi trên Blog RFA với luận điệu xuyên tạc trắng trợn Đại hội XII của Đảng

     Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đi vào cuộc sống của nhân dân ta với một kỳ Đại hội thành công, trí tuệ được nhân dân cả nước và thế giới đồng thuận ca ngợi, đánh giá cao. Tuy nhiên, các thế lực thù địch và bọn cơ hội chính chính trị lại tỏ ra rất hằn học trước sự kiện trên. Trong những ngày qua, trên các trang mạng xã hội chúng đã đăng rất nhiều các bài viết xuyên tạc tình hình Việt Nam, phủ nhận thành công của Đại hội XII; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thành tựu của công cuộc đổi mới; bôi nhọ, nói xấu các đồng chí lãnh đạo của Đảng, Nhà nước nhằm hạ thấp uy tín của Đảng, chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân… kích động nhân dân chống Đảng, Nhà nước, gây mất ổn định xã hội. Một trong những bài viết đó là “Sẽ không có cách mạng từ dưới lên hay từ trong ra…” của Song Chi đăng trên Blog RFA.
    Xuyên suốt bài viết của Song Chi là luận điệu phủ nhận, xuyên tạc, vu cáo trắng trợn về bản chất, vai trò, sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam, thành tựu cách mạng Việt Nam đã giành được dưới sự lãnh đạo của Đảng, về tình hình đất nước. Cuối cùng, tác giả kêu gọi một cuộc cách mạng bất bạo động chống lại Đảng Cộng sản Việt Nam. Đúng là một sự xuyên tạc, vu cáo trắng trợn, môt luận điệu cực kỳ phản động về chính trị.
     Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh rằng, từ khi ra đời đến nay Đảng Cộng sản Việt Nam đã làm tròn vai trò, sứ mệnh mà dân tộc, nhân dân giao cho, đã lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh lật đổ chế độ thực dân, phong kiến, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Trong bối cảnh bị thực dân khủng bố, đàn áp dã man, hàng vạn đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam bị bắn giết, tù đầy nhưng Đảng vẫn trung thành với mục tiêu lý tưởng, với lợi ích của nhân dân, của dân tộc, kiên cường lãnh đạo cách mạng đến thành công, trong khi các đảng phái chính trị khác hoặc đầu hàng, hoặc tan rã.
   Ngay sau khi đất nước ta giành được độc lập, các thế lực thực dân, đế quốc quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta anh dũng chiến đấu, giành thắng lợi vĩ đại trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược trong suốt 30 năm, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
    Trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta, quân đội ta đánh thắng hai cuộc chiến tranh xâm lược ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng, đồng thực hiện trọn vẹn nhiệm vụ quốc tế vô sản, giúp nhân dân Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt xây dựng lại đất nước Ăngco phồn vinh.
   Trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào khủng, thoái trào, Đảng ta đã khởi xướng và lãnh đạo nhân dân tiến hành công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, đất nước ta không đổ vỡ như Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu mà tiếp tục ổn định và phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa. Sau 30 năm đổi mới, sức mạnh mọi mặt, thế và lực của đất nước được củng cố và tăng cường; chính trị – xã hội ổn định; quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam được nâng cao.
   Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn dựa vào dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phục vụ lợi ích của nhân dân, của dân tộc, chưa khi nào Đảng coi nhân nhân là công cụ, là phương tiện, lợi dụng nhân dân để giành lấy quyền lực, vì lợi ích vụ lợi của mình, không bao giờ dùng bạo lực để trấn áp nhân dân mà dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng, để trấn áp các lực lượng phản động, bảo vệ lợi ích của nhân dân. Trong công tác xây dựng Đảng, Đảng luôn ra sức củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, kiên quyết đấu tranh khắc phục mọi sự chia rẽ, mất đoàn kết trên cơ sở thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ và nguyên tắc sinh hoạt Đảng, phát huy dân chủ trong Đảng.
    Đương nhiên, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng cũng đã mắc một số sai lầm, khuyết điểm nhưng Đảng đã sớm nhận ra và quyết tâm sửa chữa, được nhân dân tin tưởng. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, trước tác động của mặt trái kinh tế thị trường, một bộ phận cán bộ, đảng thoái hóa, biến chất, quan liêu, tham nhũng, lãng phí… nhưng Đảng ta đã và đang kiên quyết đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi những tiêu cực đó. Vì vậy, không thể lợi dụng những hạn chế, khuyết điểm đó mà phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, vu cáo, xuyên tạc một cách trắng trợn bản chất của Đảng, những thành quả của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng trong hơn 87 năm qua. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam, những thành tựu của cách mạng Việt Nam được nhân dân ta, bạn bè quốc tế, nhân dân thế giới thừa nhận, tôn vinh, ngay cả những nước trước đây là kẻ thù xâm lược Việt Nam. Tác giả Song Chi đừng ảo tưởng về một cuộc cách mạng bất bạo động chống lại Đảng Cộng sản Việt Nam, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
    Vì thế, những luận điệu vu cáo, xuyên tạc của Song Chi không đánh lừa được ai mà chỉ làm cho mọi người càng hiểu rõ thêm bản chất phản động, chống Đảng, chống Nhà nước của tác giả mà thôi.

MẬU THÂN 1968 - MỐC SON LỊCH SỬ CHÓI LỌI CỦA CUỘC ĐẤU TRANH BẢO VỆ TỔ QUỐC

    50 năm  trước, vào thời khắc Giao thừa Tết Mậu Thân 1968, dưới sự lãnh đạo của Đảng, mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đồng loạt tiến hành cuộc tổng tiến công và nổi dậy trên khắp miền Nam, trọng điểm là Sài Gòn-Gia Định, Đà Nẵng, Huế; đánh thẳng vào các căn cứ quân sự, cơ quan đầu não, khiến giới cầm quyền Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn bàng hoàng, sửng sốt.
      Đây là cuộc tiến công chiến lược táo bạo, bất ngờ, cường độ mãnh liệt nhất và tầm ảnh hưởng lớn nhất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta. Lần đầu tiên, sau nhiều năm tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, toàn bộ hệ thống phòng thủ đô thị của Mỹ và chính quyền Sài Gòn bị tiến công, nội bộ địch bị rối loạn. Đặc biệt, với 25 ngày đêm làm chủ thành phố Huế đã khẳng định sức mạnh của lực lượng vũ trang (LLVT) ba thứ quân, góp phần quan trọng vào thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân miền Nam anh hùng. 
     Trong cuộc tiến công chiến lược này, chúng ta không chỉ tiêu diệt nhiều sinh lực địch, phương tiện của địch, làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, mà còn đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải nhận ra rằng, không thể dùng lực lượng viễn chinh để thắng trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Với thắng lợi đó, đế quốc Mỹ phải chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Paris, tạo bước ngoặt quan trọng cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Hơn thế, thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 còn là cơ sở, động lực quan trọng để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết, thống nhất, quyết tâm thực hiện chủ trương chiến lược: “Đánh cho Mỹ cút”, tiến tới “đánh cho ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, hoàn thành trọn vẹn mong ước của toàn dân tộc và Bác Hồ kính yêu: “Bắc-Nam sum họp, Xuân nào vui hơn!”. 
       Có được thắng lợi to lớn, vang dội như vậy là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố; trong đó, tinh thần quyết chiến, quyết thắng quân xâm lược của toàn thể dân tộc Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là vấn đề quan trọng, có ý nghĩa quyết định nhất. Điều đó được thể hiện ở đường lối lãnh đạo đúng đắn, sự chỉ đạo chiến lược tài tình, sáng tạo của Đảng đối với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, nhất là trước những thử thách ngặt nghèo và thời điểm khó khăn nhất. Thắng lợi đó đánh dấu một bước phát triển mới trong học thuyết và nghệ thuật quân sự Việt Nam, để lại nhiều kinh nghiệm, bài học quý, trong đó bài học về tinh thần quyết chiến, quyết thắng quân xâm lược vẫn còn nguyên giá trị đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta hiện nay. Trong những năm tới, bên cạnh thuận lợi là cơ bản, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường, tiềm ẩn nhiều nhân tố gây bất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông diễn ra gay gắt, tác động không nhỏ đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. ục duy trì tình hình chính trị-xã hội cơ bản ổn định; kinh tế tiếp tục tăng trưởng, quốc phòng, an ninh được củng cố, quan hệ hợp tác đối ngoại không ngừng được mở rộng, vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam ngày càng được nâng lên thì cần phải tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau:
    Một là, quán triệt và vận dụng đúng đắn, sáng tạo đường lối lãnh đạo của Đảng, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới
    Không ngừng tăng cường sức mạnh và tiềm lực quốc phòng, ứng phó kịp thời, hiệu quả với mọi tình huống, không để đất nước bị động, bất ngờ về chiến lược. Bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp thường xuyên và lâu dài của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó LLVT làm nòng cốt, phối hợp chặt chẽ các hoạt động quốc phòng với an ninh và đối ngoại nhằm đảm bảo lợi ích quốc gia-dân tộc là mục tiêu cao nhất. Quá trình tổ chức thực hiện, phải nắm vững quan điểm, phương châm chỉ đạo của Đảng: Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.
    Hai là, coi trọng nghiên cứu, đánh giá đúng tình hình, đảm bảo sự chủ động về chiến lược, đối phó thắng lợi với mọi tình huống xảy ra
    Trước yêu cầu mới của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay, chúng ta phải làm tốt công tác nghiên cứu, đánh giá, dự báo tình hình, nhất là những vấn đề liên quan, tác động đến quốc phòng, an ninh của đất nước. Trên cơ sở đó, chủ động tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước trong hoạch định đường lối, chiến lược bảo vệ Tổ quốc, kiên quyết giữ vững nguyên tắc chiến lược; đồng thời, có đối sách linh hoạt, mềm dẻo để giải quyết tốt các vấn đề phức tạp, nhạy cảm trong quan hệ quốc tế. Cùng với đó, chủ động chuẩn bị về lực lượng và các kế hoạch, phương án tác chiến, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong mọi tình huống. Các cơ quan, đơn vị trong toàn quân, nhất là cơ quan cấp chiến lược cần phối hợp chặt chẽ với các cấp, ngành, lực lượng…, nhất là với lực lượng an ninh và đối ngoại để thực hiện tốt nhiệm vụ quan trọng này. Trước hết, các lực lượng cần thường xuyên phối hợp nắm chắc tình hình, có biện pháp đấu tranh hiệu quả, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động và các hành động xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ của Tổ quốc.
     Ba là, kế thừa những tinh hoa về nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân vào xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh
     Chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu bài học về nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân nêu trên để vận dụng sáng tạo vào sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, góp phần để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Theo đó, việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân hiện nay phải trên cơ sở nắm vững quan điểm, đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng, sự chỉ đạo, quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước, do toàn dân tiến hành, lấy LLVT nhân dân làm nòng cốt. Nền quốc phòng đó phải được xây dựng theo phương châm: Vững toàn diện, mạnh ở trọng điểm, nhất là trên các địa bàn chiến lược, đảm bảo đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong thời bình; đồng thời, ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, xung đột và sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược dưới mọi quy mô, hình thức. 
     Bốn là, xây dựng LLVT nhân dân vững mạnh, trọng tâm là xây dựng Quân đội nhân dân “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, làm nòng cốt cho toàn dân thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
     Đó là bài học hết sức quý báu, cần được tiếp tục vận dụng, phát huy để xây dựng LLVT ba thứ quân vững mạnh, coi trọng xây dựng lực lượng dân quân tự vệ “vững mạnh, rộng khắp”, xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu. Đặc biệt cần tập trung xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; ưu tiên một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại theo phương hướng Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã xác định. Phải xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, làm nòng cốt cho toàn dân thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Để làm được điều đó, cần tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng theo Đề án: “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới”; xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh. Đây là những vấn đề rất quan trọng, cần được thực hiện nghiêm túc, nhằm đảm bảo cho quân đội luôn giữ vững bản chất giai cấp công nhân, kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
     Các cơ quan, đơn vị trong toàn quân cần tiếp tục quán triệt, nắm vững và thực hiện nghiêm túc các văn bản mà các cấp lãnh đạo trên chỉ thị xuống. Cần đẩy mạnh đổi mới, nâng cao chất lượng các mặt công tác: Hậu cần, kỹ thuật, công nghiệp quốc phòng và đối ngoại quốc phòng... Phải coi trọng nâng cao chất lượng huấn luyện, diễn tập tác chiến hiệp đồng quân chủng, binh chủng theo các phương án và huấn luyện làm chủ vũ khí, trang bị kỹ thuật mới, hiện đại; huấn luyện thực hiện các nhiệm vụ đặc biệt, nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn, phòng chống thiên tai, thảm họa...
      Kỷ niệm 50 năm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, nhằm ôn lại sự kiện lịch sử hào hùng, tinh thần quyết chiến, quyết thắng và khát vọng hòa bình, độc lập, thống nhất của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đồng thời, giúp chúng ta nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn giá trị lịch sử và hiện thực cũng như những bài học, kinh nghiệm quý được đúc rút từ thực tiễn để vận dụng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.