Không thể dung túng những hành vi vi phạm pháp luật

        Đối với mỗi quốc gia, dân tộc trong quá trình tồn tại và phát triển của mình đều phải xử lý, giải quyết tốt những vấn đề do thực tiễn xã hội đặt ra như: giữ gìn trật tự an toàn xã hội, bảo vệ an ninh quốc gia, phòng chống thủ đoạn chống phá nhà nước của các cá nhân, tổ chức phản động. Tuy nhiên, đây là cuộc chiến lâu dài, gian khổ, bởi các thế lực thù địch, phản động sử dụng nhiều chiêu bài nham hiểm, thâm độc khác nhau, khi công khai, lúc ngấm ngầm và một trong những chiêu bài được chúng tiến hành thường xuyên lợi dụng những chuyến thăm của các nguyên thủ quốc gia đến các nước khác để xuyên tạc, công kích. Lợi dụng chuyến thăm đến các nước châu Á của Tổng thống Mỹ Donald Trump, một số phần tử cơ hội cho rằng, Ông Trump đến châu Á chỉ bàn về vấn đề thương mại, mà quên nhân quyền được đăng trên trang baotiengdan.com ngày 15/11/2017 của nhóm phóng viên khu vực Đông Nam Á, viết từ Manila. Xuyên suốt bài viết là những luận điệu xuyên tạc, phản động, bới móc lịch sử, lên án chính phủ một số nước đã vi phạm nhân quyền, giết hại, bỏ tù những người buôn bán, sử dụng ma tuý, và những người có âm mưu lật đổ chính quyền nhà nước một cách thái quá không có căn cứ.

        Trước hết, cần khẳng định rõ rằng nhân quyền là giá trị chung của nhân loại; chính phủ các nước Đông Nam Á luôn tôn trọng và bảo vệ những giá trị cao quý được nhân loại thừa nhận về quyền con người
        Nhân quyền là một trong những thành quả lớn lao của nền văn minh nhân loại là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thoả thuận pháp lý quốc tế. Những tiến bộ trong việc thực hiện nhân quyền là thành quả đấu tranh của các dân tộc bị áp bức chống đế quốc, thực dân và của nhân dân lao động chống sự áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị.
        Hiến chương Liên Hiệp Quốc đã xác định mục tiêu, nghĩa vụ và trách nhiệm của Liên Hiệp Quốc trong việc bảo vệ và thúc đẩy tôn trọng các quyền và quyền tự do cơ bản của con người.
        Việc cho rằng, Tổng thống Mỹ Donald Trump bỏ qua vấn đề nhân quyền, sẵn sàng bắn bất kỳ người nào ở giữa trung tâm New York mà vẫn được bầu làm tổng thống, Tổng thống Philippines Duterte tiến hành chiến dịch đẫm máu để giải quyết tệ nạn ma tuý… chỉ là sự đánh giá, nhìn nhận phiến diện một chiều theo ý kiến cá nhân chủ quan của một nhóm người.
        Thực tiễn cho thấy, việc làm của Tổng thống Duterte đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ các tầng lớp nhân dân vì họ cho rằng đây là biện pháp tốt để loại trừ những ung nhọt của xã hội, bảo vệ người dân và phát triển đất nước Philippines; nhờ vào chiến dịch trấn áp tội phạm mạnh tay của Ông, tình trạng phạm tội đã giảm, hàng nghìn kẻ buôn bán thuốc phiện phải ở sau song sắt, hàng triệu con nghiện đã đăng ký điều trị và thế hệ tương lai của Philippines được bảo vệ khỏi đại dịch thuốc phiện. Ngay cả Tổng thống Mỹ Donald Trump đã ca ngợi chiến dịch truy quét tội phạm ma túy của nhà lãnh đạo Philippines Rodrigo Duterte: “Tôi muốn chúc mừng ông vì ông đang giải quyết vấn đề ma túy một cách đáng kinh ngạc. Nhiều quốc gia đang đối mặt với vấn đề này. Ông đang làm rất tốt và tôi chỉ muốn gọi điện để nói với ông điều này”.
        Như vậy, vấn đề nhân quyền của con người đã được cụ thể hoá và thể hiện sinh động trong cuộc sống hàng ngày của mỗi con người, đó là sự tham gia có hiệu quả vào các chương trình, dự án kế hoạch do chính phủ các nước tổ chức, người dân luôn được tôn trọng và có quyền bầu ra, bãi miễn đối với những người đứng đầu nhà nước mình, đó là sự đấu tranh không khoan nhượng với những cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật, ngăn cản những hoạt động tiến bộ vì sự phát triển của xã hội. Vì sự thịnh vượng và những lợi ích của quốc gia, dân tộc, chính phủ các nước trên thế giới đã không ngừng hoàn thiện, bổ sung, điều chỉnh luật pháp, đem lại những quyền lợi thiết thực, cụ thể để con người được cống hiến, hưởng thụ những giá trị vật chất và tinh thần.
        Thứ hai, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn có chủ trương, chính sách hành động thiết thực làm cho nhân quyền trở thành các giá trị hiện thực sinh động trong cuộc sống
        Đối với Việt Nam, nhân quyền là bộ phận cấu thành bản chất chế độ, và mục tiêu của cách mạng; là một trong các yếu tố tiên quyết để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa – Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Các thế hệ cách mạng đi trước đã hy sinh xương máu giành lấy chủ quyền, nhân quyền, chúng ta có nhiệm vụ phải giữ vững chủ quyền, phải làm cho nhân quyền trở thành tài sản chung của toàn dân, trở thành điều kiện để các thế hệ người Việt Nam hiện tại và trong tương lai cùng có cơ hội phát triển.
        Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã triển khai nhiều hoạt động hết sức cụ thể trên lĩnh vực bảo vệ nhân quyền. Hệ thống văn bản pháp luật đã từng bước thể chế hóa các chính sách của Đảng về quyền con người, tạo cơ sở pháp lý cho việc đảm bảo quyền con người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
        Sau hơn 30 năm đổi mới, mức sống của các tầng lớp dân cư được cải thiện rõ rệt, công cuộc xóa đói, giảm nghèo thu được kết quả tích cực; nhân dân được phát huy các quyền cơ bản của con người trên tất cả các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa, … phù hợp với đặc điểm, tình hình của đất nước. Vì vậy, việc cho rằng Việt Nam bắt và kết án blogger “Mẹ Nấm” 10 năm tù vì tội tuyên truyền chống nhà nước là vi phạm nhân quyền là luận điệu hoàn toàn sai trái, phản động, bịa đặt. Luận điệu này thể hiện rõ cái nhìn thiển cận, phiến diện, đi ngược lại với những nỗ lực, cố gắng của Đảng, Nhà nước trong việc đem lại những điều tốt đẹp nhất đến với con người.
        Thế giới dù có nhiều biến thiên, đổi thay, nhưng những giá trị về quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của con người vẫn luôn được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Những hiện tượng tiêu cực trong xã hội, cùng với những âm mưu, thủ đoạn vi phạm nhân quyền của con người sẽ bị luật pháp quốc tế và chính những hành động tiến bộ của con người vì một thế giới đại đồng đào thải để nhường chỗ cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ của xã hội.
NVV

Đoàn kết, hòa hợp dân tộc là chủ trương chiến lược của Đảng và Nhà nước Việt Nam

       Trong bài viết “Không thể có hòa giải khi cái ác còn ngự trị” của tác giả mang bút danh Phạm Đình Trọng trên trang Danlambao có đoạn viết: “Đầu năm 2017, người đứng đầu hội Nhà Văn của đảng cộng sản Việt Nam đánh tiếng mời gọi các nhà văn người Việt ở nước ngoài về nước mở hội hòa giải, hòa hợp dân tộc vào ngày giỗ Vua Hùng”…, với mục đích “góp phần làm giàu các giá trị truyền thống của dân tộc, xứng đáng để chúng ta vượt qua mọi xa cách và trở ngại, cùng ngồi lại với nhau trong tình đồng nghiệp” (trích nội dung thư mời của Hội nhà văn Việt Nam). Nếu chỉ như vậy thì không phải bàn luận gì thêm. Nhưng vì mục đích chia rẽ đoàn kết, hòa hợp dân tộc bằng sự kích động hận thù dân tộc mà Phạm Đình Trọng đã cố tình xuyên tạc, phủ nhận mục đích nhân văn, nhân đạo của Hội nhà văn Việt Nam tổ chức cuộc gặp mặt này với những cáo buộc rằng: “làm giàu các giá trị truyền thống của dân tộc chỉ là cách nói văn vẻ, hoa mỹ và sáo rỗng, cách nói né tránh, lừa mị, giấu ý đồ thực vốn là thuộc tính của những người cộng sản”. Thật thô thiển khi Phạm Đình Trọng còn viết: “Nếu gặp để làm lành, gặp để hòa giải và phục thiện thì dù là cuộc gặp của cái ác với nạn nhân của cái ác cũng đáng gặp và cần gặp. Nhưng có phải gặp để làm lành, để hòa giải, để cái ác phục thiện?”. Vậy sự thật vấn đề đoàn kết, hòa hợp dân tộc ở Việt Nam như thế nào?
       Kể từ khi có Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo cách mạng Việt Nam, lòng yêu nước và sự nhân ái của nhân dân luôn được coi trọng như nền tảng tinh thần cho sự đoàn kết, hòa hợp dân tộc. Bằng chứng là, ngay sau khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, trong khi phải lo đối phó với thù trong, giặc ngoài, trước những lo lắng của đồng bào cả nước, nhất là đồng bào Nam Bộ khi biết tin Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ cùng đoàn đại biểu Nhà nước Việt Nam sang Pháp để mở cuộc đàm phán chính thức, nên trong thư gửi đồng bào Nam Bộ (01/06/1946) Người viết: “đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đại đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc sẽ vẻ vang”. Nội dung bức thư đã thể hiện rõ tư tưởng đoàn kết, hòa hợp dân tộc, nhất là lòng nhân ái, khoan hồng đại độ của Người trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp.
       Tư tưởng đó tiếp tục được Đảng, Nhà nước Việt Nam vận dụng thực hiện trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, đặc biệt khi đất nước đã hoàn toàn giải phóng, Nam Bắc thống nhất một nhà. Bước vào thời kỳ đổi mới, bám sát tình hình và nhu cầu thực tiễn, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã kịp thời xác định nhiều chủ trương, chính sách về đoàn kết, hòa hợp dân tộc. Hội nghị Trung ương 7 khóa IX đã ban hành Nghị quyết 23-NQ/TW vào ngày 12/03/2003 về “phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; Nghị quyết 24-NQ/TW về “công tác dân tộc”; đặc biệt Nghị quyết 36-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về “công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài”, khẳng định: Người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời và là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta với các nước. Đây là quan điểm định hướng chiến lược làm cơ sở thống nhất về nhận thức, tư tưởng, tổ chức, chính sách để thực hiện đoàn kết, hòa hợp dân tộc. Cho đến nay, những định hướng đó đang từng bước được hiện thực hóa.
       Đại hội lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định sự nhất quán các quan điểm, chủ trương của Đảng về đoàn kết, hòa hợp dân tộc, trong đó xác định: “Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh làm điểm tương đồng; xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; truyền thống nhân nghĩa, khoan dung đề cao tinh thần dân tộc, để tập hợp mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội”. Tại Đại hội XII, Đảng ta một lần nữa khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc…; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia – dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước…”.
       Dẫn ra những quan điểm chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam về đoàn kết, hòa hợp dân tộc để thấy rằng, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm xây dựng, củng cố, tăng cường đại đoàn kết dân tộc. Vì vậy, Phạm Đình Trọng cho rằng: “Đảng cộng sản cầm quyền chưa hòa giải được với người dân trong nước đang đóng thuế nuôi nấng đảng làm sao đảng cộng sản có thể hòa giải được với người dân phải bỏ nước ra đi chạy trốn cái ác cộng sản”. Đây là sự cố tình xuyên tạc sự thật về chính sách đoàn kết, hòa hợp dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm mục đích kích động hận thù dân tộc, cần phải được vạch trần và kiên quyết đấu tranh, bác bỏ./.
NVV

Cảnh giác với các luận điệu phản động, xuyên tạc kết quả Hội nghị Trung ương 6 (Khóa XII) của Đảng

            Sau khi Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII) của Đảng bế mạc thì trên trang mạng xã hội xuất hiện một loạt bài viết xuyên tạc về kết quả của Hội nghị; trong đó có bài viết với tiêu đề “Hai kỳ hội nghị, một sự thất bại” của kẻ có danh xưng là “Bạch Hoàn”. Trong bài viết y đã cố tình xuyên tạc việc chống tham nhũng và xử lý kỷ luật cán bộ của Đảng nhằm tạo ra dư luận trái chiều, nhận thức sai lệch về kết quả Hội nghị Trung ương 6, khóa XII.

            Thứ nhất, bài viết xuyên tạc về công tác cán bộ của Đảng qua việc xử lý kỷ luật đồng chí Nguyễn Xuân Anh.            

            Thực tế không đúng như các luận điểm xuyên tạc của Bạch Hoàn về công tác cán bộ của Đảng thời gian qua. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta luôn quan tâm công tác xây dựng và chỉnh đốn đội ngũ cán bộ, đảng viên, xác định đây là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định, quy chế về cán bộ và công tác cán bộ, như Nghị quyết số 03-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Nghị quyết số 11-NQ/TW về “Luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp” và Nghị quyết số 42-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về “Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Kết luận số 37-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về “Tiếp tục đẩy mạnh chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Nghị quyết số 12-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Kết luận số 24-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XI về “Tiếp tục đẩy mạnh công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý đến năm 2020 và những năm tiếp theo”. Gần đây, ngày 7/10/2017, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Quy định số 98-QĐ/TW của Bộ Chính trị khóa XII về luân chuyển cán bộ. Tuyệt đại bộ phận cán bộ, đảng viên luôn là tấm gương sáng về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân.

Bên cạnh đó một bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, tham nhũng, lãng phí, vụ lợi cá nhân… Do đó, Đảng ta đã xử lý kỷ luật một số cán bộ lãnh đạo, quản lý điển hình như: Vũ Huy Hoàng, Nguyễn Minh Quang, Trần Lưu Hải, Huỳnh Minh Chắc, Đinh La Thăng và Nguyễn Xuân Anh là những việc cần phải làm để làm trong sạch bộ máy của Đảng, Nhà nước.

            Thứ hai, bài viết đã xuyên tạc hoạt động đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí của Đảng, Nhà nước qua việc xử lý kỷ luật đồng chí Nguyễn Xuân Anh.

            Trong bài viết, Bạch Hoàn đã cố tình xuyên tạc việc Đảng, Nhà nước đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực và vi phạm các quy định của Đảng, Nhà nước của một số cán bộ cấp cao gần đây; việc xử lý kỷ luật đồng chí Nguyễn Xuân Anh nhằm gây ra sự hoài nghi, chia rẽ nội bộ trong Đảng và gây hoài nghi trong nhân dân ta. Những năm qua, Đảng ta đã ban hành rất nhiều chỉ thị, nghị quyết về phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Đặc biệt, Hội nghị BCHTW lần thứ 4 (khóa XII) ban hành Nghị quyết về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Việc phòng chống tham nhũng, lãng phí đã đạt được những kết quả nhất định. Nhiều vụ tham nhũng lớn, phức tạp, gây hậu quả nghiêm trọng đã bị phát hiện và xử lý nghiêm khắc, đúng pháp luật.

             Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII) đã xét kỷ luật đồng chí Nguyễn Xuân Anh vì đã vi phạm các khuyết điểm sau: Chịu trách nhiệm chính về những vi phạm, khuyết điểm của Ban Thường vụ Thành ủy nhiệm kỳ 2015 – 2020; vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ và các quy định của Đảng, Nhà nước về công tác cán bộ; kê khai, sử dụng bằng cấp không đúng quy định, thiếu trung thực, vi phạm tiêu chuẩn cấp ủy viên và quy định những điều đảng viên không được làm; thiếu gương mẫu trong việc nhận, sử dụng ôtô do doanh nghiệp biếu, tặng và sử dụng 2 nhà ở của doanh nghiệp, gây dư luận xấu trong xã hội. Dư luận đại đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân cho rằng đây là mức kỷ luật vừa nghiêm khắc, vừa nhân văn, thấu lý đạt tình, tâm phục khẩu phục, có tác dụng giáo dục, cảnh tỉnh, cảnh báo, phòng ngừa chung rất sâu sắc, không có chuyện đấu đá nội bộ như Bạch Hoàn đã cố tình xuyên tạc, bịa đặt.

            Qua đọc bài viết “Hai kỳ hội nghị, một sự thất bại” của kẻ có danh xưng là “Bạch Hoàn” cho thấy đây là luận điệu bịa đặt nhằm xuyên tạc kết quả Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII) của Đảng ta nhằm chia rẽ, gây hoài nghi trong nội bộ Đảng và nhân dân ta. Vì vậy, mọi người hãy nêu cao tinh thần cảnh giác với những luận điệu phản động, xuyên tạc trên!./.

NVV

Không thể phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng

          Xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với đất nước tiến tới xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một trong những “mũi nhọn” mà các thế lực thù địch, phản động tập trung chống phá trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của chúng và bài viết của Hương Khê trên blog Danlambao cũng không ngoài mục đích đó.

          Hương Khê đã rất hằn học khi dẫn ra một số vấn đề như: tiêu chuẩn đối với người được kết nạp vào Đảng là phải có hai người giới thiệu và phải trải qua thời gian dự bị 1 năm trước khi trở thành đảng viên chính thức, để nói rằng “đường lối của đảng là kiểm soát cả tư tưởng và hành động của con người”; việc sinh hoạt, học tập của đảng viên là “đảng bắt buộc họ phải họp chi bộ, đảng bộ”; thực hiện tư phê bình, phê bình là “xưng tội” và “bới lông tìm vết”; nêu danh một số người “xin ra khỏi đảng” để đưa ra kết luận “phong trào từ bỏ đảng phát triển rầm rộ khắp nơi”. Đặc biệt, là việc trích dẫn một số câu nói của lãnh đạo Đảng và đại biểu Quốc hội liên quan đến Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tư Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng: ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, để quy chụp rằng, “tham nhũng và sự suy thoái đạo đức, lối sống” đó là “căn bệnh nan y”, “chết nhanh, chết chậm” của Đảng và Đảng Cộng sản Việt Nam “hiện nay đang trên đà suy thoái và tan rã”, “không còn đủ khả năng và uy tín để đưa con thuyền dân tộc qua cơn sóng gió” v.v…
          Rõ ràng, Hương Khê đã cố tình xuyên tạc, bóp méo sự thật về Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sỹ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam; suốt đời phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội – Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đã  khẳng định rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”, “Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản”, “Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện các nguyên tắc: tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.” và “Đảng Cộng sản Việt Nam được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo cách mạng của Đảng”… Bởi vậy, lẽ đương nhiên với những người được kết nạp vào Đảng phải chấp hành nghiêm cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống trong sáng, lành mạnh, giản dị, được hai người giới thiệu, phải trải qua thời gian dự bị 1 năm trước khi trở thành đảng viên chính thức cũng như việc sinh hoạt, học tập, thực hiện phê bình và phê bình của đảng viên trong chi bộ, đảng bộ và việc tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách…, là nguyên tắc bất di bất dịch trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động lãnh đạo của Đảng; là công việc thường xuyên, nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, năng lực và sức chiến đấu của Đảng đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng. Điều này, hoàn toàn không phải như những gì mà Hương Khê đã xuyên tạc, bịa đặt.
          Mặc dù, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là trước những tác động từ khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới; từ mặt trái của kinh tế thị trường; từ công tác giáo dục chính trị tư tưởng, quản lý cán bộ, đảng viên còn thiếu chặt chẽ; từ việc thiếu tu dưỡng, rèn luyện của một bộ phận cán bộ, đảng viên cùng với sự chống phá ngày càng tinh vi, nguy hiểm của các thế lực thù địch, phản động…, đã dẫn đến “tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ tham nhũng, lãng phí, tiêu cực chưa bị đẩy lùi. Điều này, đã được Đảng chỉ rõ trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (Khóa XII). Điều đáng quan tâm là, những hạn chế khuyết điểm đó Đảng Cộng sản Việt Nam đã không dấu diếm mà nghiêm túc, công khai kiểm điểm và có kế hoạch, quyết tâm khắc phục. Việc phát hiện và đưa ra xét xử, kỷ luật (không có vùng cấm) đối với các trường hợp cán bộ, đảng viên vi phạm điều lệ Đảng, pháp luật Nhà nước trong thời gian gần đây đã minh chứng rõ điều đó. Chúng ta không thể chấp nhận những người (trong đó có Hương Khê) cố ý lợi dụng những hạn chế, khuyết điểm đó để tuyên truyền, xuyên tạc, kích động nhằm chia rẽ khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng, giữa Đảng với nhân dân để phục vụ cho mưu đồ đen tối của họ.
          Thực tiễn cho thấy, gần 90 năm qua, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là nhân tố thắng lợi của Cách mạng Việt Nam. Đảng đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành Cách mạng tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã lãnh đạo đất nước vượt qua khó khăn, thách thức và đạt được những thành tựu có ý nghĩa lịch sử, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; giữ vững ổn định chính trị; phát triển kinh tế – xã hội; tăng cường quốc phòng, an ninh; mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Qua đó cho thấy, cả trong lịch sử, hiện tại và tương lai, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Cách mạng Việt Nam. Bởi vậy, những người như Hương Khê dù có cố gắng đến đâu đi chăng nữa trong tuyên truyền, xuyên tạc, nói xấu, bôi nhọ, thổi phồng những hạn chế, khuyết điểm, thậm chí kích động hòng chia rẽ mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, vẫn không thể phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đất nước và dân tộc./.
NVV

Tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo của Ðảng trong đấu tranh chống luận điệu xuyên tạc, phá hoại của các thế lực thù địch

         Xuyên tạc lý tưởng cách mạng, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam với sự nghiệp cách mạng là các vấn đề nổi lên hàng đầu trong hoạt động chống phá do các thế lực thù địch cùng một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí tiến hành. Vì thế, chúng ta cần luôn khẳng định vai trò lãnh đạo của Ðảng trong cuộc đấu tranh với các luận điệu sai trái thù địch để bảo vệ sự nghiệp chính nghĩa của toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân ta.
          Thời gian qua, trên một số trang mạng phản động, các phần tử cơ hội cấu kết với những thế lực thù địch đã đăng tải nhiều tin, bài xuyên tạc vai trò lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam (ÐCS Việt Nam) nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cố tác động tạo ra xung đột trong đời sống xã hội, làm tổn hại mối quan hệ giữa ý Ðảng, lòng dân. Chúng khai thác một số khuyết điểm, yếu kém mà Ðảng ta đã chỉ ra để xuyên tạc bản chất của Ðảng; lợi dụng tình trạng dư luận xã hội bức xúc về tệ nạn tham nhũng, về sự suy thoái của một số cán bộ, đảng viên để quy kết khuyết điểm, sai lầm, tiêu cực trong xã hội cho Ðảng; lợi dụng việc một số cán bộ cấp cao bị kỷ luật do vi phạm các nguyên tắc của Ðảng để coi đó là mất đoàn kết, thống nhất trong Ðảng; thổi phồng một số hạn chế, bất cập về mô hình tổng thể của tổ chức bộ máy thuộc hệ thống chính trị chưa được hoàn thiện, một số bộ phận, lĩnh vực chưa phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới để phủ nhận vai trò lãnh đạo của Ðảng. Phải khẳng định về bản chất, luận điệu này là xuyên tạc nguyên tắc lãnh đạo, tổ chức, sinh hoạt, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ trong mọi hoạt động của ÐCS Việt Nam. Ðây là thủ đoạn rất thâm độc của “diễn biến hòa bình”, cố gắng tập trung chống phá, xuyên tạc làm dư luận nghi ngờ, tác động làm đảng viên thoái hóa, biến chất, từ đó phục vụ âm mưu phá vỡ khối đoàn kết thống nhất trong Ðảng, kích động tinh thần dân chủ theo lối tự do vô chính phủ để từng bước làm mất uy tín, sức mạnh, vai trò lãnh đạo của Ðảng.
         Vì vậy, chúng ta cần tăng cường cảnh giác, tích cực đấu tranh vạch trần, bác bỏ các luận điệu xuyên tạc; qua đó trực tiếp khẳng định ÐCS Việt Nam là chính Ðảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
         Lịch sử gần 100 năm qua đã chứng minh, từ khi ra đời đến nay, ÐCS Việt Nam luôn phấn đấu rèn luyện để xứng đáng là đội tiên phong, đại biểu trung thành của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc Việt Nam; là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; các tổ chức của Ðảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Khái niệm đảng cầm quyền với đảng lãnh đạo chính quyền của ÐCS Việt Nam là sự thống nhất biện chứng. Bởi lẽ, sự tồn tại và phát triển của Ðảng là tiền đề, điều kiện cho sự tồn tại, hoạt động của Nhà nước, và Nhà nước là một phương thức hoạt động của Ðảng, là đối tượng lãnh đạo của Ðảng. Khi ÐCS Việt Nam trở thành Ðảng duy nhất cầm quyền thì “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực hiện sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Ðảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”[1].
         Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 đã hiến định: ÐCS Việt Nam – Ðội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy Chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, các tổ chức của Ðảng và các đảng viên ÐCS Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật… Khẳng định vị thế, vai trò lãnh đạo của Ðảng là phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân dân, là tư tưởng xuyên suốt, nhất quán, là vấn đề có tính nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam, phù hợp với thể chế chính trị – xã hội mà nhân dân Việt Nam đã lựa chọn. Gần đây, việc ban hành các nghị quyết T.Ư khóa XII, nhất là Nghị quyết T.Ư lần thứ tư, thứ năm, thứ sáu cho thấy quyết tâm rất lớn của Ban Chấp hành T.Ư, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng; thể hiện tính chiến đấu của Ðảng ta. Kết quả bước đầu thực hiện các Nghị quyết Hội nghị T.Ư khóa XII của Ðảng đã trở thành động lực, tiếp thêm sức mạnh trong trái tim của hàng triệu cán bộ, đảng viên, xứng đáng với niềm tin, lòng mong muốn của các tầng lớp nhân dân.
         Trong quá trình thực hiện chức năng lãnh đạo của mình, ÐCS Việt Nam luôn củng cố và mở rộng nền tảng xã hội của Ðảng, giành được sự ủng hộ tuyệt đối của nhân dân. Mọi hoạt động của Ðảng đều vì quyền lợi và hạnh phúc của nhân dân, từ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Ðảng có được sự ủng hộ tuyệt đối của nhân dân hay không, tất cả đều phụ thuộc vào năng lực cầm quyền của Ðảng. Nhận thức sâu sắc vấn đề đó, ÐCS Việt Nam đã nghiêm túc chấn chỉnh, phê bình những cán bộ, đảng viên thiếu trách nhiệm trong việc tăng cường mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Bởi, hơn bao giờ hết, mỗi cán bộ, đảng viên của Ðảng phải thật sự “hết lòng vì dân”, mới “được dân hết lòng vì Ðảng”. Có dân là có tất cả, mất dân là mất tất cả. Ðó là bài học có tính quy luật được chắt lọc từ thực tiễn cách mạng của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Ðảng trong việc giành và giữ chính quyền. Vì thế, sự thống nhất giữa ý Ðảng và lòng dân cần và phải được hiện hữu trong đời sống và mọi mặt hoạt động của nhân dân, thông qua hệ thống chính sách của Ðảng và Nhà nước. Hệ thống chính sách của Ðảng và Nhà nước không ngoài mục tiêu nào khác là hướng đến nhân dân, chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; mỗi cán bộ, đảng viên, các tổ chức Ðảng và chính quyền từ Trung ương đến địa phương đều phải thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Muốn cho dân yêu, muốn được lòng dân, việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh.
         Khẳng định ÐCS Việt Nam duy nhất cầm quyền, lãnh đạo hệ thống chính trị là nguyên tắc không thể thay đổi, nhưng cũng cần nhận thức rằng, bên cạnh những mặt cơ bản, tích cực của một đảng duy nhất cầm quyền, nếu không tỉnh táo sẽ dễ nảy sinh một số hạn chế, nhất là nguy cơ suy thoái quyền lực. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý nguy cơ sai lầm về đường lối, sự suy thoái về đạo đức cách mạng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên sau khi giành được chính quyền. Người yêu cầu cần phải chiến thắng ba thứ giặc nội xâm là tham ô, lãng phí, quan liêu; nếu không sẽ làm đổ vỡ cả sự nghiệp của một đảng cầm quyền. Các nguy cơ đó chỉ có thể bị ngăn ngừa, đẩy lùi, khắc phục qua việc từng bước đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, mà trước hết là dân chủ trong Ðảng, đến dân chủ trong các cơ quan quyền lực nhà nước, trong toàn xã hội. Ðáng chú ý, xây dựng, chỉnh đốn Ðảng phải trở thành công việc thường xuyên, bắt đầu từ mỗi cán bộ, đảng viên quán triệt, thực hiện tốt chức trách, công việc được giao, kiên quyết đấu tranh phòng, chống các biểu hiện: “Miệng thì nói dân chủ nhưng làm việc thì họ theo lối “quan” chủ. Miệng thì nói “phụng sự quần chúng”, nhưng họ làm trái ngược với lợi ích của quần chúng”[2]. Nếu lãnh đạo chỉ thiên về quyền lực “làm việc theo cách quan liêu. Cái gì cũng đúng mệnh lệnh. Ép dân chúng làm”[3], là đồng nghĩa với lãnh đạo thiếu văn hóa. Văn hóa cầm quyền của Ðảng là phải “sao cho được lòng dân”, “Chính phủ là công bộc của dân”[4].
         Nhận thức sâu sắc vị thế của đảng cầm quyền trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, ÐCS Việt Nam luôn tự đổi mới, tự chỉnh đốn; nhận diện sâu sắc các nhân tố tiêu cực bên trong làm tổn hại đến quyền lực để có các biện pháp phòng ngừa hữu hiệu, làm trong sạch bộ máy, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng. Theo đó, kiên quyết, kiên trì chống tham nhũng, lãng phí, coi đó là “giặc nội xâm”, liên quan đến sự mất còn của chế độ xã hội chủ nghĩa. Bởi, tệ tham nhũng và sự kém hiệu quả trong đấu tranh chống tệ nạn này là một nguyên nhân quan trọng làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Ðảng, vào bản chất tốt đẹp của chế độ; tham nhũng có thể làm mục ruỗng Ðảng và hệ thống chính trị nước ta, làm cho Ðảng ngày càng xa dân. Trong bối cảnh hiện nay, nhiệm vụ chống tham nhũng, và nhiệm vụ xây dựng hình tượng cán bộ, đảng viên trong sạch, liêm khiết theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn chặt với nhau. Vì thế, ÐCS Việt Nam chủ trương phải kiên quyết khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là với cán bộ cấp cao; nâng cao lập trường cách mạng, bản chất giai cấp công nhân của Ðảng; ra sức học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng dưới mọi hình thức; nêu cao tính đảng, tính tiền phong gương mẫu trong quá trình tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Ðó thật sự là một mặt trận chiến đấu đầy cam go, phức tạp, không kém phần quyết liệt song có ý nghĩa quyết định sự “mất, còn” đối với uy tín cầm quyền của Ðảng, lòng tin của nhân dân đối với Ðảng cầm quyền.
         Trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới và phát triển đất nước, Ðảng ta luôn nhận thức sâu sắc rằng, vai trò lãnh đạo của Ðảng phải được thể hiện bởi hiệu quả lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội, trọng tâm là hiệu quả lãnh đạo đối với Nhà nước pháp quyền XHCN. Vì thế, trong phương thức cầm quyền của Ðảng, đi đôi với việc tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhân dân, Ðảng lãnh đạo Nhà nước thông qua việc thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Ðảng thành Hiến pháp, pháp luật, kế hoạch, đồng thời tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng. Vì thế, tại Hội nghị T.Ư lần thứ sáu vừa qua, Ban Chấp hành T.Ư đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu quả; xem đó là nhiệm vụ cơ bản, cấp bách có ý nghĩa quan trọng hàng đầu, được đặt trong tổng thể nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Ðảng.
         Trên thực tế, kể từ khi toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân kiên quyết, kiên trì triển khai thực hiện các Nghị quyết Hội nghị T.Ư khóa XII của Ðảng về cuộc đấu tranh nhằm ngăn chặn, đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí; về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đã thu được nhiều kết quả quan trọng. Nhiều vụ án tham nhũng lớn đã được phát hiện, đưa ra xét xử công khai; công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quán triệt và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết, kết luận của Ðảng, quy định của Nhà nước về sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế đang được triển khai đồng bộ. Ðó vừa là bằng chứng bác bỏ luận điệu xuyên tạc, vu cáo của các thế lực thù địch, vừa khẳng định vị thế, vai trò của ÐCS Việt Nam là Ðảng duy nhất có đủ năng lực lãnh đạo đối với cách mạng Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong thời kỳ mới.
NVV

Nhận diện và phòng, chống “Tự diễn biến”, “Tự chuyển hóa” về tư tưởng trong cán bộ, đảng viên

          “Tự diễn biến”, “Tự chuyển hóa” về tư tưởng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên là một vấn đề hệ trọng, liên quan đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Để nhận diện và phòng, chống thì việc tìm hiểu nguyên nhân và đề ra những giải pháp cơ bản giúp khắc phục vấn đề trên trong thực tiễn là cần thiết.
          Nhận diện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng
          Có thể nói, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong nội bộ đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên là điều kiện, cơ hội cho chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên.
          Tại Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (4-1994), Đảng ta xác định 4 nguy cơ đối với chế độ ta là: “Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới do điểm xuất phát thấp, tốc độ tăng trưởng chưa cao và chưa vững chắc, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh gay gắt; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa nếu không khắc phục được những lệch lạc trong chủ trương, chính sách và chỉ đạo thực hiện; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch”(1) . Đánh giá về “nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa” và “nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu” về thực chất đã chỉ ra nguyên nhân có thể dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị. Nhận định của Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII về những nguy cơ đối với chế độ ta tiếp tục được các đại hội của Đảng, từ Đại hội lần thứ VIII đến Đại hội lần thứ XII khẳng định lại với tinh thần đánh giá những nguy cơ này chẳng những vẫn đang tồn tại mà có phần còn nghiêm trọng hơn.
          Từ thực tiễn cuộc sống, chúng ta có thể hiểu “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên là quá trình tự thay đổi tư duy, nhận thức của cán bộ, đảng viên theo chiều hướng tiêu cực, từ đúng thành sai, từ tin tưởng đến hoài nghi, phủ định tính khoa học, tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước để chuyển sang sùng bái, tin theo các luận điểm tư sản, sai trái, phản động.
          Nguyên nhân? Quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có thể khái quát qua một số nguyên nhân chủ yếu sau:
          Thứ nhất, do những tác động trái chiều của quá trình toàn cầu hóa và kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường cùng với quá trình toàn cầu hóa là xu thế tất yếu, tác động đến mọi mặt về kinh tế – xã hội của các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Đối với nước ta, quá trình này bên cạnh những tác động tích cực thì còn chứa đựng những tác động tiêu cực, là nguyên nhân dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, đó là việc truyền bá những giá trị dân chủ, nhân quyền, đạo đức, lối sống không phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể hiện nay của Việt Nam. Quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, sự bùng nổ thông tin qua internet đã tác động trực tiếp đến nhận thức của mỗi người. Cùng với sự lan tỏa những điều tốt đẹp trong xã hội đến từ các quốc gia trên thế giới còn có sự xâm nhập những lối sống thiếu lành mạnh, phản tiến bộ, hoặc là công cụ của các thế lực thù địch. Và, những hoài nghi, dao động không được định hướng kịp thời được cộng hưởng bởi sự xuyên tạc của các thế lực thù địch thông qua chiến lược “diễn biến hòa bình” đã tác động tiêu cực đến một bộ phận cán bộ, đảng viên có lập trường không vững vàng, tự nguyện rời bỏ lý tưởng của Đảng, công khai chỉ trích lý tưởng, con đường chủ nghĩa xã hội.
          Thứ hai, do những thách thức của hoàn cảnh lịch sử, âm mưu “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động trong, ngoài nước. Sự tan rã của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu buổi đầu là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự suy giảm lòng tin của một số cán bộ, đảng viên đối với chủ nghĩa Mác – Lê-nin và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Mặc dù sự sụp đổ này đã diễn ra gần ba thập kỷ, tuy nhiên trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên đã và hiện có những người bi quan, dao động, nghi ngờ tính đúng đắn, tính khoa học của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Ngày nay, các nước tiếp tục đi lên chủ nghĩa xã hội còn lại sau sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu trong đó có nước ta đang đối mặt với những khó khăn thách thức mới, đó chính là sự phân hóa giàu nghèo, những cản trở từ chính quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội phải đối mặt từ bên trong như: tham nhũng, lãng phí, các tệ nạn xã hội, lối sống bị tha hóa, những cám dỗ vật chất tầm thường, lợi ích nhóm… Vì vậy, các thế lực thù địch đã lợi dụng để xuyên tạc, hòng chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế mà chúng ta đang dày công xây dựng trong tiến trình đổi mới đất nước.
          Chiến lược “Diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch vẫn không ngừng thay đổi nội dung và phương thức hoạt động. Ngoài các chiêu bài cũ như: phổ biến tuyên truyền các giá trị “dân chủ”, nhân quyền, thể chế “tam quyền phân lập”, “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”… hiện chúng đang sử dụng các phương thức mới như: tán dương, ủng hộ và dựa vào các đối tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để thực hiện ý đồ chuyển hóa chế độ xã hội ta…
          Thứ ba, do những yếu kém từ chính nội bộ đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quá trình lãnh đạo thực hiện sự nghiệp đổi mới. Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo trong hơn 30 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, đồng thời khẳng định tính đúng đắn, khoa học của con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo cách mạng thì Đảng còn tồn tại những hạn chế nhất định, làm “mảnh đất” cho “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hình thành. Đó là:
          – Hạn chế trong đổi mới tư duy, phát triển lý luận và công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng. Có thể nhận thấy rằng, thực tiễn luôn vận động và phát triển trong khi đó công tác nghiên cứu, phát triển lý luận của chúng ta chưa theo kịp được với sự vận động, phát triển này. Tình trạng giáo điều, rập khuôn cùng với hiện tượng phủ nhận hệ thống lý luận Mác – xít của các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị khiến cho lĩnh vực tư tưởng lý luận trở nên phức tạp; công tác tổng kết thực tiễn, bổ sung lý luận còn chậm, hiệu quả thấp. Mặt khác, công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên còn nhiều hạn chế về nội dung và phương pháp nên hiệu quả tuyên truyền chưa cao, chưa đủ sức “đề kháng” trước những luồng tư tưởng độc hại, đây là nguyên nhân dẫn đến sự sa sút niềm tin, xuất hiện tâm lý tiêu cực.
          – Hạn chế trong công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị, thể chế nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đó là, việc chưa phân định rõ ràng, rành mạch, trách nhiệm không rõ, nội dung và phương thức hoạt động chậm đổi mới, còn nhiều biểu hiện của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Tổ chức bộ máy ở nhiều cơ quan, tổ chức chưa hợp lý, còn cồng kềnh. Tinh thần thái độ trách nhiệm phục vụ của một bộ phận cán bộ công chức, viên chức còn thấp.
          – Những yếu kém trong công tác kiểm tra, giám sát và công tác cán bộ đang thực sự là vấn đề nóng bỏng tác động không nhỏ đến lòng tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ xã hội chủ nghĩa. Hiện tượng chạy chức, chạy quyền, chạy bằng cấp, cất nhắc cán bộ không đúng người có tài, có tâm, có tầm… đang tác động rất lớn đến tâm tư, tình cảm, niềm tin của cán bộ, đảng viên. Ngoài ra, trong công tác kiểm tra, giám sát chúng ta chưa huy động được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia vào việc giám sát tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên cũng là một trong những nguyên nhân làm cho một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống.
          Để công tác phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên đạt được hiệu quả cao
          Quyết tâm thực hiện mục tiêu: “… Kiên quyết khắc phục những yếu kém trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, trách nhiệm, năng lực và động cơ đúng đắn, thực sự tiên phong, gương mẫu, luôn đặt lợi ích của tập thể, quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, thực sự là cán bộ của dân, phục vụ nhân dân. Củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng”, như Nghị quyết số 04-NQ/TW, Hội nghị Trung ương 4, khóa XII của Đảng đề ra, trong thời gian tới chúng ta cần:
          Một là, đổi mới tư duy, phát triển lý luận, đặc biệt coi trọng công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong tình hình mới. Mục đích của giải pháp này nhằm củng cố, khẳng định nền tảng tư tưởng của Đảng, làm cho chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự là kim chỉ nam trong mọi chủ trương, chính sách của Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần những nguyên lý, quy luật trong xây dựng đảng Mác-xít nói riêng và các vấn đề chính trị – xã hội nói chung. Muốn vậy, cần:
          – Kiên trì thế giới quan, phương pháp luận khoa học và các giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam; đồng thời, tiếp thu các thành tựu mới, tinh hoa của nhân loại, những nền tảng cơ bản cần vận dụng trong nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận.
          – Bổ sung, hoàn thiện những luận điểm khoa học về chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, giải quyết được những băn khoăn, trăn trở trong nhận thức, tư tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Đây là yếu tố rất quan trọng để nâng cao nhận thức chính trị, tăng cường niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, góp phần đẩy lùi, triệt tiêu những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng và suy thoái về đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay.
          – Nghiên cứu, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả nội dung xây dựng Đảng về đạo đức. Nâng cao chất lượng công tác tư tưởng, lý luận; tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Đổi mới mạnh mẽ công tác giáo dục lý luận chính trị, học tập nghị quyết; thực hiện nền nếp việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Thực hiện nghiêm túc việc chất vấn trong Đảng. Gắn kiểm điểm, tự phê bình và phê bình với làm rõ trách nhiệm chính trị, trách nhiệm đạo đức và trách nhiệm pháp lý của đảng viên. Đối với cán bộ, đảng viên làm việc trong các cơ quan đảng, nhà nước các cấp, cần kiểm điểm, đánh giá về thực hiện chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên, nghĩa vụ công chức, đạo đức công vụ, trách nhiệm trước nhân dân.
          – Cụ thể hóa nội dung xây dựng văn hóa trong các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, trong hệ thống chính trị, trọng tâm là đề cao tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp, nhất là của người đứng đầu.
          Hai là, nâng cao chất lượng quản lý đảng viên, thường xuyên duy trì có hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Với đội ngũ cán bộ, đảng viên phải tự giác đặt mình vào trong tổ chức, chịu sự quản lý của tổ chức, chấp hành các chế độ, quy định trong sinh hoạt đảng. Khắc phục các hiện tượng ngại sinh hoạt, bỏ sinh hoạt dưới bất kỳ hình thức nào hoặc coi sinh hoạt chỉ là hình thức. Dù ở bất cứ cương vị công tác nào cũng phải luôn luôn nêu cao ý thức tổ chức, kỷ luật, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện. Với tổ chức đảng, phải nâng cao chất lượng quản lý đảng viên một cách toàn diện, kể cả các quan hệ xã hội, các nguồn thu nhập, lối sống. Tăng cường chế độ trách nhiệm trong Đảng, quán triệt và thực hiện nghiêm quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; tiến hành tốt công tác kiểm tra, giám sát sẽ góp phần quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên ở mọi lúc, mọi nơi; phát hiện và xử lý kịp thời những đảng viên vi phạm tư cách, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những phần tử cơ hội, bất mãn, gây mất đoàn kết nội bộ trong Đảng. Do đó, công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng phải được tiến hành chặt chẽ, đúng quy trình, đạt hiệu quả thiết thực, nâng cao vai trò của cơ quan, Ủy ban Kiểm tra của cấp ủy các cấp, tổ chức đảng, cơ quan báo chí, quần chúng nhân dân đối với cán bộ, đảng viên, gắn kiểm tra, giám sát với thi hành kỷ luật Đảng theo Điều lệ đã ban hành; kiên quyết xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên vi phạm, những tổ chức đảng yếu kém làm trong sạch nội bộ Đảng; Cần quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Đối với người đứng đầu, cần tăng cường kiểm tra trách nhiệm chính trị trong đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và lợi ích nhóm.
          Ba là, nâng cao hiệu quả giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên với nhiều hình thức, phương pháp. Trong công tác, cán bộ, đảng viên phải giải quyết nhiều mối quan hệ xã hội, trong đó mối quan hệ giữa lợi ích của tập thể – lợi ích cá nhân là yếu tố cơ bản tác động chi phối đến tư tưởng, tình cảm, đạo đức lối sống, nếu mỗi cá nhân thiếu bản lĩnh chính trị, không tự giải quyết hài hòa mối quan hệ này sẽ dễ dàng bị lôi cuốn vào vòng xoáy của tham vọng quyền lực, vun vén lợi ích cá nhân, tham nhũng, lãng phí, bị kẻ xấu lợi dụng lôi kéo, mua chuộc làm phai nhạt mục tiêu lý tưởng cách mạng của Đảng. Nâng cao chất lượng giáo dục rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên là công việc thường xuyên, công việc “gốc” trong công tác xây dựng Đảng. Chú trọng kết hợp giữa tự giáo dục, rèn luyện của bản thân với giáo dục rèn luyện của tổ chức là phương pháp cơ bản.
          Cán bộ, đảng viên phải tự giác rèn luyện, thể hiện ở tinh thần cầu thị tiến bộ; tinh thần ham học tập ở mọi lúc, mọi nơi; có ý thức kiên trì rèn luyện thói quen, phương pháp làm việc khoa học, nghiêm túc, cụ thể, tỷ mỷ từ việc nhỏ đến việc lớn, từ những hành vi đơn giản đến phức tạp, “việc thiện thì nhỏ mấy, khó mấy cũng nên làm, việc ác thì nhỏ mấy cũng tránh”. Biết tự đánh giá bản thân để lựa chọn con đường, biện pháp rèn luyện phù hợp; có thái độ nghiêm khắc trong tự phê bình, lắng nghe ý kiến nhận xét của quần chúng, cấp trên, cấp dưới và đồng cấp về bản thân mình. Tích cực chủ động phát huy ưu điểm, khắc phục sửa chữa sai lầm, khuyết điểm để không ngừng tự hoàn thiện bản thân…
          Cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu tổ chức các cấp cần thường xuyên coi trọng việc rèn luyện cán bộ, đảng viên; quy định rõ chức trách, nhiệm vụ, quyền lợi của mỗi cá nhân trên từng cương vị công tác, tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ, đảng viên bộc lộ, phát huy tối đa năng lực bản thân; lấy kết quả hoạt động thực tiễn làm tiêu chí cơ bản để đánh giá phẩm chất và năng lực cán bộ, đảng viên. Kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện quy định của Bộ Chính trị về những điều đảng viên không được làm; kịp thời phát hiện, biểu dương người tốt, việc tốt; tạo dư luận lên án và kịp thời xử lý nghiêm những biểu hiện sai phạm của cán bộ, đảng viên dù ở bất cứ cương vị công tác nào.
          Bốn là, Đảng phải thường xuyên quan tâm hơn nữa đến đời sống vật chất, tinh thần và lợi ích thiết thân của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Hiện nay, trong điều kiện Đảng cầm quyền, đảng viên là cán bộ, công chức nhà nước có điều kiện chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho bản thân và gia đình. Do đó, khi đời sống được bảo đảm, quyền lợi vật chất chính đáng được bảo vệ, chính là điều kiện để mỗi người gắn bó với công việc; yên tâm thực hiện nhiệm vụ được giao; giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống. Bảo đảm thu nhập, tiền lương tương xứng với sự đóng góp, phù hợp với công sức, trí tuệ của mỗi người đã cống hiến; thực hiện “đẩy mạnh cải cách tiền lương, thu nhập, chính sách nhà ở bảo đảm cuộc sống cho cán bộ, đảng viên, công chức để góp phần phòng, chống tham nhũng”(2); công bằng giữa các khu vực, nhất là khu vực hành chính sự nghiệp, với khu vực doanh nghiệp nhà nước là nguyện vọng chính đáng của đảng viên, công chức, viên chức.
          Để đời sống vật chất và tinh thần của đảng viên được bảo đảm, ngoài việc phát huy yếu tố chủ quan của bản thân mỗi đảng viên thì trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị các cấp phải thật sự quan tâm đến điều kiện làm việc, thu nhập và cuộc sống cho họ. Chống đặc quyền, đặc lợi, có những chính sách, quy định chế độ vật chất và tinh thần, bảo đảm công khai, dân chủ, công bằng và chính đáng giữa các cấp cán bộ và giữa cán bộ, công chức với nhân dân./.
NVV

TĂNG CƯỜNG ĐẤU TRANH VỚI CÁC TRANG MẠNG INTERNET ĐỘC HẠI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

     “Diễn biến hoà bình”(DBHB) là chiến lược tiến công trên quy mô toàn cầu của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch nhằm chống phá CNXH và phong trào cộng sản quốc tế trong điều kiện không thể giành thắng lợi bằng quân sự. “Diễn biến hòa bình” (DBHB) là một chiến lược thâm độc, tấn công toàn diện, trên nhiều mặt, nhất là trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng vào Đảng và Nhà nước ta
    Bằng các thủ đoạn xảo quyệt, bằng các phương tiện thông tin hiện đại, các thế lực phản động ra sức chống đối, xuyên tạc, bóp méo sự thật, tuyên truyền dụ dỗ, lôi kéo làm cho cán bộ, đảng viên và quần chúng tách rời Đảng, không đi theo lý tưởng XHCN, đi ngược lại mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn, đi đến xóa bỏ ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng Cộng sản Việt Nam đồng thời ra sức truyền bá hệ tư tưởng giai cấp tư sản, truyền bá văn hóa, lối sống thực dụng ích kỷ.
      Âm mưu tấn công nhằm phá hoại về tư tưởng là một thủ đoạn mưu mô xảo trá và là một bộ phận quan trọng của chiến lược “Diễn biến hòa bình”(DBHB). Vì vậy nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống chiến lược “Diễn biến hòa bình” (DBHB) của các thế lực thù địch trên mạng internet trong giai đoạn mới là một trong những nhiệm vụ mang tính cấp thiết của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta.
      Hiện nay mạng Internet ở Việt Nam được phổ cập và phát triển tương đối rộng rãi. Sự phát triển của Internet góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế xã hội, tri thức dân tộc của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những tiện ích của Internet mang lại thì mặt trái của nó là không hề nhỏ; đặc biệt là các thế lực thù địch đã triệt để khai thác sử dụng mạng Internet để thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” (DBHB) chống đối, phá hoại cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, từng cán bộ, đảng viên và quần chúng phải nhận thức đúng âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, từ đó tích cực vận động đấu tranh và đấu tranh làm thất bại chiến lược DBHB trên mạng Internet là rất cần thiết, sử dụng mạng xã hội thế nào cho đúng cách, không bị các thế lực thù địch lợi dụng, đòi hỏi mỗi người phải luôn tỉnh táo, thường xuyên nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc sử dụng internet nói chung, các trang mạng xã hội nói riêng.
      Với khả năng trao đổi thông tin đa dạng và sự tham gia cung cấp, trao đổi thông tin của hàng trăm, hàng tỉ triệu người trên thế giới, trong thực tế khó có thể ngăn cản thông tin từ trong nước ra nước ngoài thông qua Internet. Chúng ta đã sử dụng đến giải pháp bức tường lửa để ngăn chặn thông tin phản động từ nước ngoài, nhưng trên thực tế chúng đã xây dựng rất nhiều website khác nhau làm cho chúng ta không thể kiểm soát, ngăn chặn được hoàn toàn những thông tin phản động đó. Vì vậy, để làm tốt việc đấu tranh phòng chống các quan điểm sai trái và thù địch trên Internet cho cán bộ, đảng viên và quân chúng cần làm tốt các nội dung:
      Một là, tổ chức tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và quân chúng nhân dân về nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống các quan điểm sai trái, thù địch trên Internet. Các cấp ủy, tổ chức Đảng phải lãnh đạo, chỉ đạo tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt trong việc tuyên truyền, giáo dục; cần tập trung làm rõ âm mưu, thủ đoạn mới của các thế lực thù địch trên Internet; những vấn đề, sự kiện mà chúng lợi dụng xuyên tạc, mức độ nguy hại, ảnh hưởng của các thông tin sai trái, thù địch đó đối với cán bộ, đảng viên và quân chúng.Tăng cường công tác bảo vệ an ninh mạng nội bộ, không để xảy ra hiện tượng cán bộ, đảng viên và quần chúng bị kẻ địch lôi kéo, móc nối; kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn những quan điểm, tư tưởng sai trái thẩm lậu vào đơn vị. Thực hiện nghiêm túc các quy chế, quy định về quản lý tài liệu, không để các ấn phẩm văn hóa độc hại, tài liệu phản động lọt vào đơn vị, trang bị phương pháp tiếp cận thông tin trên mạng Internet một cách khoa học, đứng đắn, nghiêm túc.
      Hai là, đẩy mạnh hoạt động đấu tranh trực diện thông qua các phương tiện báo chí, thông tin đại chúng. Báo chí truyền thông là công cụ sắc bén và là lực lượng đi đầu trong công tác đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên Internet. Trước sự chống phá của các thế lực thù địch chúng ta phải cung cấp thông tin một cách kịp thời, thường xuyên, chính xác, đầy đủ của mọi sự kiện, đó là sự phản bác có hiệu quả nhất, là cơ sở quan trọng cho việc thực hiện yêu cầu cần thoát khỏi thế “chống đỡ” để chuyển mạnh sang thế “tấn công” hướng thẳng đến các thế lực thù địch. Các cơ quan báo chí, thông tin đại chúng cần bám sát nhiệm vụ chính trị; mở rộng các chuyên trang, chuyên mục về đấu tranh chống “DBHB”, đặc biệt là trước các thông tin sai trái, thù địch trên Internet. Sớm khắc phục tình trạng sai tôn chỉ mục đích trên một số tờ báo, tạp chí, cố tình đưa quá nhiều mảng tối của đời sống chính trị, tạo “mảnh đất” để địch dễ dàng lợi dụng, khai thác thông tin, nói xấu chế độ.
      Ba là, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị gia tham gia đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch trên mạng Internet. Cuộc đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch trên mạng Internet là cuộc chiến không khói súng, cuộc cách mạng của cả nền chuyên chính chống lại bọn phản động mà đối thủ nhiều khi không lộ diện, tính chất rất khó khăn và phức tạp. Chính vì vậy phải cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban, ngành, đoàn thể nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp. Phải huy động toàn xã hội, toàn dân tham gia cuộc đấu tranh này; khơi dậy tinh thần yêu nước, ý thức cảnh giác cách mạng. Chú trọng việc tham gia của các tổ chức quần chúng, các đoàn thể như: Đoàn thanh niên, Công đoàn, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp…
      Bốn là, phát triển lực lượng, sử dụng các biện pháp kỹ thuật trong đấu tranh trên mạng Internet. Cần chủ động lựa chọn, bồi dưỡng, giao nhiệm vụ mở rộng và phát triển lực lượng làm nhiệm vụ đấu tranh trên Internet. Phát huy vai trò của các Blogger trong đấu tranh trực diện với các quan điểm sai trái, thù địch thông qua các trang mạng. Thành lập một số website với tư cách là cổng thông tin, diễn đàn mở để trao đổi các ý kiến, quan điểm khác biệt. Chúng ta có điều kiện trực tuyến tranh luận, giải thích với những người có ý kiến, quan điểm khác biệt, hoặc phản bác những quan điểm thù địch, chống đối chế độ. Xây dựng hệ thống phương tiện, kỹ thuật hùng hậu, sức mạnh vẹn toàn, quản lý kết nối mạng đảm bảo tốt, ngăn chặn các trang web, blog đăng tải những thông tin sai trái, thù địch, có nội dung phản động.
      Sự phát triển của Internet là thành tựu của nhân loại và trở thành một trong những nhu cầu thiết yếu của đời sống xã hội, mang lại những tiện ích nhiều mặt cho con người trên toàn cầu, thúc đẩy sự phát triển xã hội, tri thức dân tộc trên nhiều lĩnh vực, đó là điều chúng ta không thể phủ nhận. Đồng thời, sẵn sàng chống lại các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng thành tựu đó để mạng lại những tác hại không hề nhỏ. Nếu những người sử dụng Internet không vững vàng trong nhận thức, thiếu nhãn quan chính trị đúng đắn, thiếu thông tin chính thống, khi tiếp xúc với những quan điểm sai trái, thù địch thì sẽ dễ có những suy nghĩ lệch lạc, dẫn đến mơ hồ, mất niềm tin. Nhận diện và đấu tranh với những chiêu trò bôi xấu, vụ lợi trên mạng Internet là việc làm cần thiết đối với mỗi chúng ta.... 
      VÌ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI MUÔN NĂM, SẴN SÀNG ĐẤU TRANH CHỐNG LẠI CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH TRÊN MỌI PHƯƠNG DIỆN !!!!

Tội ác băng đảng “Việt Tân” bị điều tra, vạch trần tại Mỹ!

Anh Nguyễn Thanh Tú - con trai cố ký giả, nhà báo Nguyễn Đạm Phong (một trong những người bị băng đảng Việt Tân giệt khẩu vì vạch trần bản chất khủng bố, gian manh, lừa đảo bà con hải ngoại để kiếm tiền) tiếp tục hành trình tìm công lý cho cha.
- Anh tú tâm sự: "Vì muốn báo hiếu cho Cha tôi mà 35 năm qua tôi buộc phải nuốt ngược nước mắt. Ngày nay, đi tìm công lý cho cha của tôi, cố ký giả Đạm Phong, là một hành trình nhiều cam go, nhưng cuối cùng đã cho tôi nhiều phần thưởng".
- Xúc động trước loạt phóng sự điều tra của anh Tú, càng căm hận trước sự im lặng bất thường của FBI và nhà chức trách Mỹ, anh Trần Thùy Hoan bình luận: 
"42 năm cộng đồng sống như một bày Gián ngày để một tổ chức khuynh đảo, doạ nạt, bịp bỡm, không ai dám hé răng để nói lên sự thật. Việt tân là tổ chức mafia hay đúng hơn là băng đảng mafia của người Việt ở HK, chúng lợi dụng sự chống Cộng mù quáng, sự thiếu đoàn kết, sự tự do kiểu Mỹ và bàn tay lông lá của CIA để tồn tại và lừa đảo bà con Hải ngoại trục lợi. Rất tiếc là sau khi nhóm bạn của anh Tú đã vạch trần chúng ra ánh sáng vẫn còn nhiều kẻ lên tiếng ủng hộ, hiện nay chúng vẫn tồn tại được và đang có xu hướng thay đổi phương thức hoạt động và dùng những cái tên nghe rất dễ lọt tai như “ democracy fo Vietnam” “VOICE”, “ Hội phụ nữ VN cứu quốc”, “ mặt trận cứu nguy dân tộc”” tập hợp thanh niên dân chủ”, “ tập hợp đồng tâm”, “phong trào đòi dân chủ cho VN”, “ liên minh quân chủ lập hiến đa nguyên cho Việt Nam!” ....có đến hơn 50 tập hợp băng đảng ngày đêm quyên góp tiền để tư túi cá nhân. Mọi hoạt động của chúng nhất cử nhất động đều bị chính phủ Việt Nam theo dõi và chỉ cần chúng gây bạo loạn sẽ bị khống chế. Chúng chỉ lợi dụng tự do ngôn luận, tự do hội nhóm để chõ mõm về chửi bới chứ không làm rụng một sợi lông của CS. Mong bà con Hải ngoại tỉnh táo đừng để chúng tiếp tục lừa đảo như 42 năm chúng đã làm. Tất cả các hội nhóm chông Cộng chỉ là lừa đảo vì chúng không bao giờ làm nổi một cái trò gì. Mạnh mẽ như “Mặt trận” mà còn bị tan nát, kẻ chết, người chui đầu vào tù thì các ổ nhóm khác chẳng thể làm nên cơm cháo gì, chỉ phí tiền vì ngu dốt mà đem nộp cho bọn này".

Quả thực, nếu không có những con người dám đứng lên tìm công lý như anh Tú thì trước những lời hoa mị về "DÂN CHỦ", "NHÂN QUYỀN", "TỰ DO"... của "Việt Tân" sẽ tiếp tục là tấm áo choàng che khuất bản chất với những tội ác tày trời của một băng đảng khủng bố khét tiếng tại Mỹ. Hoạt động điều tra của anh Nguyễn Thanh Tú không chỉ vạch trần tội ác của tổ chức khủng bố Việt Tân mà còn là lời cảnh tỉnh cho những ai đã, đang bị những chiêu trò chính trị ma mị, bịp bỡm của “việt tân” hấp dẫn để quay lại chống chính quyền, chống dân tộc, phá hoại sự bình yên, hạnh phúc của nhân dân.
Nhân đây, cũng gửi lời tới các giáo hội, giáo dân, tín đồ các tôn giáo hãy cảnh giác trước những hứa hẹn của tổ chức khủng bố này, chớ để chúng thò bàn tay lông lá vào giáo hội, làm lũng đoạn đức tin, gây chia rẽ sự đoàn kết dân tộc như những gì đã xảy ra tại 1 số giáo xứ thuộc giáo phận Vinh trong thời gian qua. Để rồi, những gì nhận lại là sự thiêng liêng, tình yêu thiên chúa, sự trong sáng của đức tin tuyệt vời phút chốc bị vấy bẩn, lòng cảm mến của con người có đạo, không có đạo đối với giáo hội bỗng trở thành sự ke ngại, ghê sợ...

Việt Nam có tiếng nói đáng tin cậy về các vấn đề liên quan đến Luật Nhân đạo quốc tế

Quan điểm, các biện pháp và thành tựu bảo đảm quyền con người của Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá cao cho dù Việt Nam phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh khốc liệt với những hậu quả dai dẳng, gây nhiều tác động tiêu cực tới cuộc sống của người dân trên mọi miền Tổ quốc hiện nay.

“Tại Việt Nam, những câu chuyện về nỗi đau chiến tranh dường như vẫn còn mới. Trên thực tế, Việt Nam vẫn đang phải gánh chịu nhiều hậu quả chiến tranh như vật liệu nổ còn sót lại và các di chứng do chất độc da cam gây ra. Đây là lý do vì sao Việt Nam có tiếng nói mạnh mẽ và đáng tin cậy trong cộng đồng quốc tế về các vấn đề liên quan đến Luật Nhân đạo quốc tế”, ông Beat Schweizer, Trưởng đại diện khu vực của Ủy ban Chữ thập đỏ quốc tế (ICRC) có trụ sở tại Bangkok, Thái Lan, khẳng định tại buổi Hội thảo tổ chức tại Hà Nội sáng 5-12, nhân kỷ niệm 60 năm Việt Nam phê chuẩn các công ước Geneva năm 1949.
Ông Beat Schweizer cũng nhấn mạnh: “ICRC đánh giá cao sự hỗ trợ tích cực và vai trò lãnh đạo của Việt Nam trên trường quốc tế trong việc nỗ lực củng cố, phát triển hơn nữa Luật Nhân đạo quốc tế”.
Là đất nước đã trải qua nhiều cuộc chiến, Việt Nam hiểu rõ hệ quả tàn khốc của chiến tranh, và nhận định rằng chiến tranh không chỉ gây thương đau cho con người và đất nước trong thời gian xảy ra cuộc chiến mà còn để lại những hệ quả đau thương, những mất mát không thể bù đắp cho các thế hệ sau này. Kết quả các cuộc khảo sát gần đây cho thấy bom mìn, vật nổ trong chiến tranh vẫn còn sót lại trên khắp lãnh thổ Việt Nam, lấy đi sinh mạng của hơn 50.000 người và làm bị thương hơn 60.000 người kể từ khi đất nước thống nhất năm 1975. Trong số những nạn nhân nêu trên, chủ yếu là những lao động chính trong các gia đình và trẻ em - thế hệ tương lai của đất nước Việt Nam. Bom mìn, vật nổ nằm trong lòng đất không chỉ là mối hiểm nguy tiềm ẩn đối với người dân, mà còn là rào cản đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, là tác nhân gây ô nhiễm môi trường.
Nhận rõ tầm quan trọng của việc bảo đảm quyền con người theo các tiêu chuẩn quốc tế và các công ước quốc tế liên quan tới quyền con người và các vấn đề nhân đạo, ngày 5-6-1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh, thay mặt nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, gửi Công hàm đến Chủ tịch Liên bang Thụy Sĩ, tuyên bố gia nhập bốn Công ước Geneva năm 1949 về Luật Nhân đạo quốc tế.
“Đây là dấu mốc lịch sử quan trọng, là minh chứng cho vị trí quan trọng của việc tôn trọng Luật Nhân đạo quốc tế và thúc đẩy thực thi Luật Nhân đạo quốc tế trong chính sách của Việt Nam”, ông Nguyễn Minh Vũ, Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao khẳng định.
Việt Nam là một dân tộc văn hiến với truyền thống yêu chuộng hòa bình, nhân đạo và khoan dung. Hoạt động nhân đạo đã được Đảng và Nhà nước quan tâm bằng các chủ trương chiến lược đúng đắn, kịp thời, chính sách cụ thể. Ngay khi còn trong thời gian chiến tranh, với tư cách là thành viên của bốn Công ước Geneva năm 1949, Việt Nam đã tiến hành trao đổi thông tin, viện trợ thuốc men, vệ sinh nước sạch cho người bị thương, trao trả tù binh…
Trong giai đoạn hòa bình hiện nay, các hoạt động nhân đạo tại Việt Nam đã thu được một số kết quả quan trọng, nhất là trong các lĩnh vực phòng chống thiên tai, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn, và đề cao việc đối xử nhân đạo với các ngư dân trên biển…
Bên cạnh đó, việc tăng cường phổ biến, tuyên truyền Luật Nhân đạo quốc tế trong trường học và cho các đối tượng liên quan cũng là một trong những hoạt động được chú trọng đẩy mạnh. Việt Nam luôn hợp tác chặt chẽ với ICRC trong các hoạt động này.
Quan điểm của Nhà nước Việt Nam về các vấn đề nhân đạo hay quyền con người bắt nguồn từ truyền thống lịch sử, văn hóa của một dân tộc luôn coi trọng hòa hiếu, khoan dung, nhân đạo, yêu chuộng hòa bình và các giá trị nhân văn. Việt Nam luôn xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp phát triển đất nước.
Quan điểm, chủ trương của Việt Nam về quyền con người được thể hiện ở nhiều nội dung, bao gồm quyền con người liên quan mật thiết đến hòa bình, an ninh và phát triển. Quan điểm đó được người dân Việt Nam đồng lòng ủng hộ qua nhiều thế hệ, quyết tâm giành được độc lập, tự do, thống nhất đất nước để được sống trong môi trường hòa bình. Kể từ khi chiến tranh chấm dứt, đất nước thống nhất, an ninh xã hội và an toàn cho người dân luôn được Đảng và Nhà nước Việt Nam đặc biệt chú trọng. Môi trường hòa bình và an ninh được bảo đảm trong những năm qua là điều kiện thuận lợi để Đảng và Nhà nước cụ thể hóa những đường lối chính sách phát triển đời sống của người dân trên khắp các tỉnh, thành phố của cả nước. Những kết quả mà công cuộc đổi mới đem lại không những cải thiện đáng kể đời sống người dân, đưa nước ta trở thành nước có thu nhập trung bình, mà còn được cộng đồng quốc tế tin tưởng, đánh giá cao, và coi là mô hình để nhiều quốc gia học tập.
Hiện nay, với chủ trương đẩy mạnh hội nhập quốc tế, Việt Nam là thành viên của gần 20 Công ước và các Hiệp ước quốc tế và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong các diễn đàn quốc tế, trong đó có các diễn đàn về bảo đảm quyền con người. Việc chủ động hội nhập và tham gia các công ước quốc tế là dịp để Việt Nam chia sẻ và học hỏi thêm kinh nghiệm bảo đảm quyền con người với cộng đồng quốc tế để thúc đẩy việc thụ hưởng ngày càng tốt hơn các quyền và tự do cơ bản của nhân dân.