Sự sụp đổ
chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Liên Xô và các nước Đông Âu cuối thập niên 80
đầu thập niên 90 là một cơn động đất chính trị lớn của thế kỷ 20. Nó có ảnh
hưởng lớn không chỉ đối với thế giới XHCN và độc lập dân tộc mà còn cả đối với
thế giới tư bản chủ nghĩa.
Các ông trùm
chiến lược, chiến lược gia và chính khách cỡ bự của chủ nghĩa tư bản đều hoan
hỷ ăn mừng rằng đây là hồi chuông báo tử, rằng chủ nghĩa xã hội (CNXH) sẽ diệt
vong vào cuối thế kỷ 20. Ta nhận định hoàn toàn ngược lại. Sự sụp đổ ở Liên Xô
và các nước Đông Âu kéo theo thoái trào của phong trào cộng sản và công nhân
thế giới là một tổn thất lớn, nhưng đó là tạm thời chứ không phải tất yếu, tin
rằng, các nước XHCN còn lại sẽ giữ vững trận địa, đảng cộng sản và
công nhân sẽ khôi phục hoạt động trong điều kiện mới, và xu
thế XHCN sẽ tiếp tục đi dưới hình thức này hay hình thức khác.
Câu trả lời
bước đầu đã có vào cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21. CNXH không hề diệt
vong. Các nước XHCN còn lại không những giữ vững trận địa mà còn định
hướng vững vàng cho sự phát triển tiến lên. Từ vùng Trung-Nam Mỹ đã phát sinh
phong trào XHCN kiểu Mỹ Latinh, khởi đầu từ Venezuela rồi lan ra một
số nước khác... Chủ nghĩa tư bản thế giới không thể chứng minh được rằng nó là
lực lượng thống trị toàn cầu và xã hội tư bản là xã hội tốt đẹp cuối cùng của
loài người. Ngay giữa lúc thế giới tư bản chủ nghĩa huênh hoang về sức sống dài
lâu của nó cũng lâm vào khủng hoảng cục bộ, rồi đến khủng hoảng toàn diện hơn,
kể từ năm 2008 đến nay, vẫn còn chưa hoàn toàn hồi phục. Thế giới từ lưỡng cực
thành đơn cực, rồi nay lại thành đa cực. Các nước thuộc các chế độ chính trị,
xã hội khác nhau đều tham gia "toàn cầu hóa" và "hội nhập quốc
tế", vừa cạnh tranh, vừa hợp tác dưới nhiều cung bậc khác nhau.
Điểm qua như
thế để thấy rõ rằng, gần 30 năm qua, xung quanh vấn đề nên theo hay không theo
CNXH, diễn biến tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và trong xã hội ở nước ta cũng
không thuần nhất và khá phức tạp, nhưng về cơ bản vẫn kiên định con đường mà
Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.
Quan điểm cho
rằng CNXH sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, vì thế Việt Nam không nên và không thể
gắn liền mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH" không phải bây giờ mới có mà đã
có từ lâu, từ sau khi CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Nhưng từ đó đến nay,
những kẻ chống đối không còn nói nhẹ nhàng như thế, họ thẳng thừng đòi
"Đảng Cộng sản Việt Nam tự giác và chủ động thay đổi Cương lĩnh, từ bỏ
đường lối sai lầm về xây dựng CNXH, chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân
chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ một
cách kiên quyết nhưng ôn hòa...". Và đến thời điểm chúng ta đang tiến hành
"phê phán các quan điểm sai trái, xuyên tạc cuộc đấu tranh chống sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự
chuyển hóa" trong nội bộ", có người mang danh đảng viên, còn ngạo mạn
nói rằng, trong lựa chọn đường lối, Đảng ta đã sai lầm không chỉ từ Hội nghị
thành lập Đảng (năm 1930) mà là từ Hội nghị Tua (năm 1921). Ý tứ đằng sau những
giọng điệu ấy là gì, chắc mỗi người chúng ta đều biết.
Với quan điểm ấy, họ đã sai lầm ít nhất là ở 8 điểm sau đây:
Về sự sụp đổ ở
Liên Xô và Đông Âu:
Thứ
nhất: Sự sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu là sự sụp đổ của một mô hình
xây dựng CNXH, chứ không phải sự sụp đổ của CNXH nói chung, với tư cách là một
nấc thang phát triển của xã hội loài người, theo quan điểm của Chủ nghĩa
Mác-Lênin.
Thứ
hai: Chế độ Xô viết ngay từ lúc mới ra đời ở Nga sau Cách mạng
Tháng Mười (năm 1917) và sau này trên toàn Liên bang Xô viết, đã tỏ rõ được
tính ưu việt so với các chế độ chính trị-xã hội trước đó. Chính quyền Xô viết
thực sự là chính quyền của công-nông-binh và của nhân dân lao động nói chung.
Nhờ tính ưu việt đó, nó đã đánh thắng cuộc chiến tranh can thiệp của các nước
đế quốc sau Cách mạng Tháng Mười, lập lại hòa bình và xây dựng chế độ mới, thực
hiện công nghiệp hóa và tập thể hóa nông nghiệp thành công, đánh thắng cuộc
chiến tranh xâm lược của phát xít Đức-Nhật, dẫn tới sự ra đời của hệ
thống XHCN thế giới. Vào thập niên 60 và 70 của thế kỷ 20 sự nghiệp
xây dựng CNXH ở Liên Xô đạt được những thành công lớn, khiến cho Đảng và Nhà
nước Xô viết ngộ nhận là CNXH đã xây dựng xong và chủ trương Liên Xô bước vào
thời kỳ xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Sự thật thì cũng thời gian đó, nhiều nhược
điểm và khuyết tật trong nội bộ Nhà nước Xô viết cũng bắt đầu hé lộ, nhất là
khi so sánh với những bước phát triển của hệ thống tư bản chủ nghĩa thời đó.
Nếu vì sự sụp đổ sau này mà phủ nhận sạch trơn những gì chế độ Xô viết đã giành
được là một sai lầm trong cách nhìn lịch sử.
Thứ
ba: Vào những năm cuối thập niên 70, đầu thập niên 80 của thế kỷ
20, sau khi phát hiện sự chậm trễ của mình, Liên Xô đề ra chính sách cải tổ;
các nước XHCN Đông Âu cũng đề ra cải cách. Cải tổ và cải cách nhằm
mục tiêu tăng tốc về kinh tế và thực hiện chế độ dân chủ rộng rãi hơn. Sai lầm
của Liên Xô và các nước Đông Âu lúc đó là đã sa vào chủ nghĩa đa nguyên, đa
đảng đối lập, buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng, gây hoang mang, dao động
trong đông đảo quần chúng, dẫn đến hỗn loạn xã hội, khiến cho ở Đông Âu, chính
quyền bị các thế lực thù địch cướp lấy, còn Liên Xô thì chia rẽ sâu sắc trong
nội bộ lãnh đạo, cuối cùng chính quyền cũng lọt vào tay nhóm chống đối trong Bộ
Chính trị, những kẻ chống chính quyền Xô viết từ rất sớm. Không thấy nguyên
nhân trực tiếp của sự sụp đổ là ở đây, mà coi sự sụp đổ là tất yếu của chính
quyền Xô viết cũng là sai lầm trong cách nhìn lịch sử.
Thứ tư: Bên cạnh những
nguyên nhân chủ quan nêu trên (tuy chưa hết), còn có một nguyên nhân trực tiếp
khác nữa là âm mưu và thủ đoạn trong chiến lược "diễn biến hòa bình"
của các thế lực thù địch đế quốc chủ nghĩa. Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai,
chúng đẩy mạnh chạy đua vũ trang. Trong khi lãnh đạo Liên Xô chủ trương thi đua
hòa bình thì chúng một mặt đẩy mạnh chạy đua vũ trang, mặt khác đề ra chiến
lược "diễn biến hòa bình" để xóa bỏ CNXH mà không cần chiến tranh và
súng đạn. Liên Xô và nhiều nước khác đã sa vào cái bẫy này của chúng mà không
tự giác phát hiện.
Về sự lựa chọn độc lập dân
tộc gắn liền với CNXH ở Việt Nam.
Thứ
năm: Đúng là ngay từ ngày mới thành lập, Đảng ta đã đề ra chủ
trương "làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới chủ
nghĩa cộng sản". Như cách nói ngày nay, đó là làm cách mạng giải phóng dân
tộc, tiến lên làm cách mạng XHCN. Đường lối độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH được đề ra xuất phát từ thực tế tình hình nước ta lúc bấy giờ là thuộc địa
của Pháp, cũng xuất phát từ xu thế phát triển có tính quy luật của thời đại mới
sau Cách mạng Tháng Mười Nga là tiến lên CNXH. 87 năm qua, những chặng đường
phát triển của cách mạng Việt Nam và những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử
đạt được đã chứng minh sự đúng đắn của đường lối này, cớ sao vì sự sụp đổ ở
Liên Xô và Đông Âu mà phải từ bỏ nó?
Thứ
sáu: Trong xây dựng CNXH, Việt Nam học tập kinh nghiệm của Liên Xô
và các nước XHCN đi trước nhưng hoàn toàn không có sự sao chép. Mô
hình xây dựng CNXH ở Việt Nam không phải là mô hình Xô viết của Liên Xô, bởi sự
khác biệt cơ bản là ở chỗ, một bên là từ cơ sở của chế độ tư bản đi lên, một
bên từ độc lập dân tộc đi lên. Bác Hồ từng nói: "Tôi chỉ có một sự ham
muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học
hành”(1). CNXH đối với Bác, như ngày nay chúng ta vẫn nói, là dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nhầm lẫn giữa mô hình xây dựng CNXH ở Việt
Nam với mô hình Xô viết là một sự sai lầm lớn.
Thứ
bảy: Vào những năm Liên Xô và Đông Âu tiến hành cải tổ và cải
cách, Việt Nam cũng đề ra đuờng lối đổi mới. Những nhân tố đầu tiên của đổi mới
xuất hiện từ những năm 70 đầu những năm 80 của thế kỷ 20, nhưng đổi mới toàn
diện trở thành đường lối chính thức của Đảng Cộng sản Việt Nam vào cuối năm
1986 theo Nghị quyết Đại hội VI của Đảng. Đổi mới của chúng ta không đi theo
vết xe đổ của cải tổ và cải cách ở Liên Xô và Đông Âu. Đảng ta đã nêu rõ 6
nguyên tắc của đổi mới, trong đó vấn đề giữ vững định hướng XHCN, đổi mới
chứ không đổi màu là nguyên tắc đầu tiên. Chúng ta cũng bác bỏ quan điểm cho
rằng “đổi mới là nửa vời, không nhất quán”. Sự thật là đổi mới của chúng ta qua
hơn 30 năm đã đưa lại những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, làm cho Việt
Nam càng vững bước đi lên trên con đường độc lập dân tộc và CNXH. Đánh đồng đổi
mới của Việt Nam với cải tổ và cải cách ở Liên Xô và Đông Âu là một sai lầm có
dụng ý.
Thứ
tám: Tổng kết 30 năm đổi mới cho thấy: Nhận thức của Đảng ta về
CNXH và về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn.
Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) chỉ rõ: "Đi
lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của
Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển
của lịch sử"(2) .
Cương lĩnh nêu lên 8 đặc trưng
của CNXH mà nhân dân ta xây dựng, trong đó 3 đặc trưng đầu tiên là: Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế
phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ
phù hợp.
Thử hỏi, con
đường độc lập dân tộc đi lên CNXH xán lạn như vậy tại sao chúng ta phải từ bỏ
chỉ vì mô hình XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ?
Trong khi nêu lên 8 sai lầm cơ
bản như trên, người viết bài này muốn đặt ra câu hỏi đối với các tác giả đòi
chúng ta từ bỏ con đường XHCN, ý đồ thực sự của các vị phía sau đòi hỏi
này là gì?