ĐÒI DÂN CHỦ NHÂN QUYỀN LÀ CHIÊU BÀI CỦA NHỮNG KẺ ĂN CƠM NHÀ NHƯNG THỜ MA NGOẠI QUỐC
Trong những năm qua Đảng, Nhà nước luôn đặc biệt quan tâm đến vấn đề dân chủ, nhân quyền trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Quyền con người, quyền công dân ngày càng được bảo đảm thực hiện được nhân dân hưởng ứng và cộng đồng quốc tế ghi nhận. Với những thành tựu to lớn về mọi mặt, Việt Nam đã được Liên hợp quốc tín nhiệm bầu làm thành viên của Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc khóa 2014-2016. Tuy nhiên, đối với một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện cảm với Việt Nam, đặc biệt là những kẻ “yêu nước”, những “nhà dân chủ” kiểu ăn cơm Việt Nam nhưng lại thờ MA ĐẾ QUỐC thì luôn luôn nhìn nhận vấn đề nhân quyền ở Việt Nam theo hướng tiêu cực, thường xuyên có tung ra những luận điệu xuyên tạc về tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Ngày 6/11/2016 trên lều báo Dân làm báo lại tiếp tục đưa ra những luận điệu xuyên tạc hết sức trắng trợn về vấn đề dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, chúng cho rằng tình hình nhân quyền Việt Nam rất tồi tệ, theo đó một trong những nước bị lên án vi phạm nhân quyên nặng nề nhất trên thế giới là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam do đảng Cộng Sản Việt Nam cai trị. Lý do để ngụy biện cho cho luận điệu này là vì đảng Cộng sản Việt Nam tồn tại cho đến ngày nay là nhờ lừa dối, nhờ độc tài, đàn áp, vi phạm nhân quyền có hệ thống, và nhờ các thủ đoạn dã man mà cộng sản gọi là tiêu diệt tiềm lực  Vì vậy, Đảng Cộng sản liên tục khủng bố, bắt giam tất cả những người yêu nước có khả năng tập họp thanh niên, tập họp quần chúng chống Trung Cộng, như luật sư Nguyễn Văn Đài, Trần Huỳnh Duy Thức, Phạm Hồng Sơn. BÙI TÍN, NGUYỄN THỊ CONG NHÂN VV...

những đối tượng giả danh yêu nước trước vỏ bọc đòi kiện thổi phồng biểu tinh

Trước hết, Đảng lãnh đạo đất nước là một lựa chọn tất yếu của lịch sử dân tộc, bởi lẽ con đường của Đảng hướng tới luôn là giải phóng con người, đề cao quyền con người. Đó được coi là yếu tố hàng đầu để huy động sức mạnh tổng hợp trong sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như trong quá trình đổi mới đưa đất nước phát triển. Hơn nữa, Đảng là thể hiện ý chí của quảng đại quần chúng nhân dân, những chủ trương, chính sách, pháp luật đều là vì nhân dân, thể hiện nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Vì vậy, hai vấn đề này có quan hệ mật thiết với nhau và phù hợp với quy luật của sự phát triển. Người dân Việt Nam chấp nhận sự lãnh đạo của một Đảng cầm quyền, bởi lẽ họ thấy rõ hơn ai hết về những gì mà Đảng Cộng sản đã đem lại cho người dân trong suốt bao nhiêu năm qua. Nhìn sang các quốc gia bên cạnh, nếu đa đảng để mà đất nước mất ổn định, lâm vào những cuộc chiến; để mà nạn khủng bố xảy ra thường xuyên thì chắc chắn người Việt Nam không thể chọn cái sự đa đảng ấy.  CÓ QUỐC GIA NÀO TRÊN THẾ GIỚI MÀ LẠI ĐƯỢC NHÂN DÂN GỌI LÀ ĐẢNG TA NHƯ Ở VIỆT NAM, CHỈ CÓ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM MỚI ĐEM CƠM NO ÁO ĐẸP CHO NHÂN DÂN.

CHỐNG "DIỄN BIẾN HÒA BÌNH" - CUỘC CHIẾN ĐẤU TRONG THỜI BÌNH

Nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng, chủ động phòng, chống “diễn biến hòa bình”, “tự chuyển biến”, “tự chuyển hóa”, kiên quyết làm phá sản âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch là một trong những nội dung rất cơ bản của nhiệm vụ xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh, từng bước hiện đại, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
Một trong những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của quốc gia, dân tộc Việt Nam; trực tiếp đem lại những thành công của sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo gần 30 năm qua là bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ được Đảng, Nhà nước, Nhân dân và bảo vệ vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa. Thành tựu này hết sức lớn lao, ý nghĩa nhân văn của việc làm này rất sâu sắc, sự đóng góp quan trọng của lực lượng tham gia đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, “tự chuyển biến”, “tự chuyển hóa”, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch là đáng ghi nhận. Nhờ đó, đất nước ta có hòa bình, ổn định và phát triển. Những gì chúng ta có được qua 30 năm đổi mới, một phần lớn là do thành quả của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc đem lại, đất nước đã không xảy ra chiến tranh; trong đó, chủ động đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Thực tế chỉ ra rằng, chiến đấu trong thời bình thể hiện rõ nhất ở cuộc đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”. Đây là cuộc chiến đấu thầm lặng nhưng vô cùng gay go, quyết liệt và phức tạp; là tiêu điểm của mặt trận đấu tranh tư tưởng, văn hóa, lý luận, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhờ nhận thức đúng đắn và luôn chủ động phòng, chống “diễn biến hòa bình” nên chúng ta đã lường trước diễn biến của thời cuộc, tránh được sai lầm, không mắc mưu địch; không bị choáng ngợp bởi các ảo giác về sự hào nhoáng của chủ nghĩa tư bản; không để đất nước bị động, bất ngờ.
Quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta là: Nói không với “diễn biến hòa bình”, không có “phi chính trị hóa” quân đội. Đó là mệnh lệnh của cuộc sống, là tuyên ngôn và là thông điệp bảo vệ hòa bình của chúng ta gửi đến tất cả nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Phải nói rằng, chúng ta đã chủ động từ việc nghiên cứu, nắm bắt thời cơ, lường trước mọi tình huống; đánh giá đúng diễn biến của tình hình, đến việc theo dõi chặt chẽ mọi động thái, âm mưu, thủ đoạn chống phá ta của địch; kịp thời đề xuất chủ trương, biện pháp đánh bại chúng. Nhờ đó đã giúp chúng ta kiên định, đứng vững, nên trong những tình huống ngặt nghèo của lịch sử, Đảng ta luôn bình tĩnh, tự tin, sáng suốt chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua giông bão, về tới đích, không bị rơi vào “vòng xoáy” của thời cuộc. Thêm một lần nữa, chúng ta đã chiến thắng cả biện pháp “phi vũ trang” mà các thế lực thù địch triệt để sử dụng để chống phá ta; luôn đứng ở trên cái thế hoàn toàn chủ động để nhìn xa trông rộng; tích cực đấu tranh chống những quan điểm sai trái, thù địch; vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn của “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”“phi chính trị hóa” quân đội của chúng. Trên mặt trận này, chúng ta đã cẩn thận từng việc nhỏ để không gây ra tai họa lớn. Một trong những biểu hiện của tính chủ động đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” thể hiện ở chỗ: Đảng ta đã sớm tổ chức và thường xuyên kiện toàn bộ tham mưu, chỉ huy mặt trận đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” từ cấp Trung ương đến cấp cơ sở. Sự ra đời của Ban Chỉ đạo 609 của Đảng, Ban Chỉ đạo 94 của Quân ủy Trung ương và Ban Chỉ đạo chuyên trách đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” ở các Quân khu, Quân chủng, Binh chủng, Quân đoàn, các đơn vị cơ sở về đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” với một hệ thống biện pháp thiết thực, cụ thể đã kịp thời chặn đứng, đập tan nhiều âm mưu đen tối của địch và bọn cơ hội chính trị.
Nhiều năm qua, cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân đã tích cực, chủ động tham gia đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội. Hàng ngàn bản tin, bài báo, đề tài khoa học các cấp, hàng trăm cuốn sách chuyên khảo, tham khảo, hàng chục hội thảo, tọa đàm, sinh họat học thuật, hàng ngàn phóng sự, băng hình…, đã được thực hiện với chất lượng tốt, được phát hành và sử dụng rộng rãi trong toàn quân, toàn quốc, đã minh chứng tính chủ động, nhạy bén trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” của cán bộ, chiến sĩ quân đội ta./.

Sức Mạnh Của Đội Quân Nhân Dân Việt Nam Đứng Thứ 14 Thế Giới, Thứ Nhất Đông Nam Á!


Bảng xếp hạng năm 2017 được Global Firepower công bố cho thấy chỉ số sức mạnh quân sự của Việt Nam đã có sự thay đổi chóng mặt. Sự thay đổi này được cho là việc Hải quân Việt Nam đã chính thức tiếp nhận 6 chiếc tàu ngầm Kilo vào cuối tháng 2 vừa qua.
Hôm 4/3/2017, trang Global Firepower đã cập nhật bảng xếp hạng sức mạnh quân sự toàn cầu mới nhất.
Mặc dù vẫn sử dụng điểm “PwrIndx” làm tiêu chí đánh giá, dựa trên 50 chỉ số được thu thập từ CIA và các báo cáo truyền thông, nhưng do áp dụng công thức tính mới mà thứ tự các quốc gia, vùng lãnh thổ đã có sự thay đổi rất đáng kể.
Cụ thể, Việt Nam từ vị trí thứ 17 nhảy vọt lên đứng thứ 14 thế giới và thứ 1 Đông Nam Á, điểm PwrIndx mới của Việt Nam là 0,3354 so với 0,3684 của lần công bố gần đây nhất (điểm PwrIndx lý tưởng là 0,0000).
Global Firepower cung cấp thêm một số thông tin chi tiết như ngân sách quốc phòng của Việt Nam trong năm 2017 hiện hơn 7 tỷ USD; tổng số quân thường trực 415.000 người, cùng với 5.040.000 quân dự bị.
Lục quân Việt Nam đang sở hữu 1.470 xe tăng chiến đấu chủ lực và xe tăng hạng nhẹ, tổng số thiết giáp là 3.150 chiếc, 524 pháo tự hành, 2.200 pháo xe kéo và 1.100 hệ thống pháo phản lực phóng loạt.
Không quân Việt Nam được trang bị 73 tiêm kích, 73 cường kích cánh bằng, 161 máy bay vận tải, 26 máy bay huấn luyện, 150 trực thăng (25 trực thăng tấn công).
Hải quân Việt Nam có trong biên chế 9 khinh hạm (frigate), 15 tàu hộ tống cỡ nhỏ (corvette), 6 tàu ngầm, 23 tàu tuần tra bờ biển, 8 tàu quét mìn, cùng hàng trăm tàu quân sự hậu cần.
Lý giải cho thứ hạng mới này của Việt Nam, các nhà phân tích quân sự trong khu vực cho rằng việc Việt Nam đưa vào biên chế 6 chiếc tàu ngầm Kilo là một vũ khí đáng sợ trong khu vực, đặc biệt là tại khu vực Biển Đông. Với hạm đội 6 chiếc tàu ngầm chỉ hoạt động tại một vùng biển duy nhất, cùng hàng trăm tàu nổi và các máy bay quân sự hiện đại. Biển Đông đã hoàn toàn bị “khóa chặt” trước sức mạnh của Quân đội Việt Nam.
Thêm vào đó với quân số chính quy hơn 400.000 người và 5 triệu lính dự bị, Việt Nam đang sở hữu một đội quân không chỉ đáng sợ trong khu vực mà còn khiến các quốc gia Châu Á – Thái Bình Dương cũng phải dè chừng!!!


SỰ THẬT CỦA CHIÊU BÀI "CHẤN HƯNG ĐẤT VIỆT"

Gần đây, trên trang mạng xã hội một số người tự cho mình là “thực sự yêu nước” đưa ra loạt bài viết, tiêu đề “Lược thuật hiện tượng Vũ Quang Thuận, tâm huyết với phong trào “Chấn Hưng Nước Việt”, đã cổ súy cho những video clips xuyên tạc lịch sử, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và thực tiễn lịch sử đã, đang diễn ra trên đất nước Việt Nam. Thoảng qua, có người lầm tưởng thái độ của họ là thực sự “vì dân, vì nước”, nhưng thực ra họ đã coi thường, phủ nhận những hy sinh, mất mát to lớn của nhiều thế hệ người Việt Nam đã làm nên kỳ tích vĩ đại trong lịch sử dân tộc ở thế kỷ XX.
Trước hết, cần khẳng định rõ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam ở thế kỷ XX là thành quả vĩ đại. Ở thế kỷ XX, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh nhân dân Việt Nam đã vùng lên đấu tranh thoát khỏi ách áp bức, nô lệ gần một thế kỷ của thực dân Pháp và phát xít Nhật trở thành người làm chủ vận mệnh đất nước. Trải qua suốt mấy chục năm “binh đao, khói lửa”, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã làm nên kỳ tích trong phong trào giải phóng dân tộc, khiến cả thế giới kính phục và gọi Việt Nam là “lương tri của thời đại”. Bất kỳ người nào có cái nhìn khách quan, không xuyên tạc về xã hội Việt Nam đều thấy rằng, lịch sử Việt Nam đã đi đúng con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhân dân Việt Nam với ý chí “không có gì quý hơn độc lập tự do”, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã vùng lên chiến đấu, chấp nhận gian khổ hy sinh để giành quyền được sống trong tự do và độc lập, đứng vào hàng tiên phong trong cuộc đấu tranh của các dân tộc trên thế giới chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới ở thế kỷ XX.
Thứ hai, sự thật về những lời cổ súy chiêu bài “Chấn Hưng Nước Việt” là lừa bịp, quay lựng lại với lịch sử . Phải khẳng định rõ ràng, đây không thể là thái độ của người “yêu nước thực sự, đầy tâm huyết” như họ tự xưng. Người Việt Nam yêu nước hiện nay phải đồng thời là người yêu chủ nghĩa xã hội, là người phấn đấu không biết mệt mỏi cho lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Những người xóa bỏ mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng chính là phủ nhận lịch sử, triệt tiêu động lực chủ yếu của sự phát triển đất nước từ chính con đường xã hội chủ nghĩa. Đó chính là những thủ đoạn bịp bợm, lừa gạt nhân dân ta, là xúc phạm lương tri của loài người tiến bộ trên toàn thế giới. Thực tiễn cuộc sống lao động hòa bình của nhân dân ta trong một đất nước độc lập, tự do là kết quả hy sinh, phấn đấu và cả xương máu của nhiều thế hệ người Việt Nam đi theo ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thế giới ngày nay biết đến Việt Nam không chỉ vì nhân dân ta anh dũng, kiên cường, chiến thắng các đế quốc xâm lược, mà còn vì chúng ta gặt hái được những thành tựu to lớn trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước. Kinh nghiệm của Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới được bạn bè năm châu đánh giá cao, khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Phải có tình cảm yêu nước, yêu quê hương sâu sắc và một thái độ có văn hóa mới thấm thía hết giá trị những thành tựu của đất nước. Quay lưng với lịch sử, phủ nhận con đường đi lên của dân tộc là một thái độ vô trách nhiệm và cách xem xét thiếu căn cứ của những người tự xưng là yêu nước, “Chấn Hưng Nước Việt” và những lời cổ súy bằng thủ đoạn xóa bỏ sự thật lịch sử đã bộc lộ sự giả tạo, lừa bịp nhân dân cần phải được lên án mạnh mẽ.

THỦ ĐOẠN VU KHỐNG HÈN HẠ CŨA MAI THANH TRUYẾT

Mới đây, Mai Thanh Truyết có bài viết “Đấu tranh thay đổi hay thay thế chế độ CSVN”. Ông ta đề cập đến một vấn đề nhức nhối, mâu thuẫn, không thể giải quyết của các đảng phái hoạt động chống Đảng Cộng sản Việt Nam và vì sao các thế lực thù địch chưa thể thay đổi chế độ Cộng sản ở Việt Nam với cách nhìn chủ quan của kẻ “ếch ngồi đáy giếng”, không hiểu gì về đất nước, con người Việt Nam. Trước hết, cần khẳng định ngay rằng: các người không bao giờ có thể làm được cái điều mà các người đang “lao tâm khổ tứ” hòng “thay đổi” hay “thay thế” chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Bởi vì:
1. Uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam và lòng tin của nhân dân Việt Nam với Đảng Cộng sản Việt Nam, không một thế lực nào phủ nhận, xuyên tạc. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất được nhân dân tin tưởng, ủng hộ và tôn vinh lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo đất nước từ khi Đảng ra đời. Cùng thời điểm Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, có nhiều đảng phái ra đời và hoạt động với cương lĩnh “phản đế bài phong” giành độc lập cho dân tộc, nhưng chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam đáp ứng được yêu cầu của cách mạng, nguyện vọng của người dân. Với cương lĩnh đúng đắn, đường lối, chính sách phù hợp, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tập hợp được đông đảo quần chúng dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, đánh đuổi đế quốc, lật độ phong kiến, giành lại độc lập cho dân tộc, mang lại hạnh phúc, ấm no cho nhân dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn làm tròn vai trò, sứ mệnh của Đảng cầm quyền, Đảng đã thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, đề ra đường lối, cương lĩnh đúng đắn để lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn thử thách. Nhân dân Việt Nam vẫn một lòng tin yêu Đảng, người dân hiểu rằng: những thiếu sót, bất cập trong lãnh đạo là không thể tránh khỏi, đảng nào nắm quyền lãnh đạo mà không có những sai lầm thiếu sót, vấn đề là Đảng có thấy, có kiên quyết khắc phục sửa chữa hay không, Đảng Cộng sản Việt Nam tự chỉnh đốn tự, đổi mới và luôn đặt lợi ích của dân tộc, quyền lợi của nhân dân lên hàng đầu. Đó là lý do mà nhân dân Việt Nam vẫn tin theo Đảng, không một thế lực nào có thể lôi kéo, dụ dỗ người dân Việt Nam xa rời Đảng. Những lý do trên cũng để trả lời cho Mai Thanh Truyết và bè lũ lưu vong phản động của chúng rằng, giấc mơ của chúng không bao giờ trở thành hiện thực.
2. Người dân Việt Nam có đủ trí tuệ, hiểu biết, phân định rõ trắng đen, phải trái, cái đúng, cái sai, tuyệt đối không bao giờ mất cảnh giác trước kẻ thù. Trong bài viết Mai Thanh Truyết hết sức ngạo mạn khi cho rằng: “Dân chúng Việt Nam chưa đủ hiểu biết để có thể thiết lập một nền dân chủ ổn định”. Dân tộc Việt Nam có hàng ngàn năm Văn hiến, đã chiến đấu với nhiều kẻ thù hung bạo để giữ nền độc lập cho dân tộc, hạnh phúc, bình yên cho nhân dân, hơn ai hết người dân Việt Nam có đủ trí tuệ, bản lĩnh và lòng dũng cảm để vượt qua mọi khó khăn, thử thách, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và đặc biệt chưa bao giờ lơ là, mất cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch. Trong điều kiện đất nước có hòa bình, ổn định, người dân Việt Nam luôn biết ơn công lao to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ Tổ quốc và công cuộc kiến thiết, đổi mới, phát triển đất nước hiện nay.
3. Thể chế chính trị của Việt Nam là một nét độc đáo, bản sắc nhưng không khác biệt. Sự khác biệt trong hệ thống chính trị giữa các quốc gia là quyền bất khả xâm phạm, các nước buộc phải tôn trong sự khác biệt đó. Việt Nam là đất nước được xây dựng trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức, đó là đặc trưng chung của nhiều quốc gia để xây dựng một thể chế chính trị ổn định phù hợp với cơ sở hạ tầng xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển bền vững. Cớ sao các ông lại muốn Mỹ phải làm gì đó để thay đổi chính phủ Việt Nam, đúng là loại “cõng rắn cắn gà nhà”?
Dân tộc Việt Nam đã đổ bao mồ hôi, xương máu để giành lại nền độc lập mà những kẻ như các ông đã đánh mất, người dân Việt Nam đã từng có nhiều lựa chọn con đường phát triển đất nước. Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng minh được sự đúng đắn, tính khoa học và tính chiến đấu, sự chân chính và được nhân dân ủng hộ tin theo. Vĩnh viễn “giấc mơ” phản bội Tổ quốc của các ông sẽ không bao giờ trở thành hiện thực, người dân Việt Nam chưa khi nào mất cảnh giác với những luận điệu phản động, phản khoa học của các ông, đất nước Việt Nam sẽ phát triển phồn thịnh, bền vững cho dù các ông ra sức kêu gào chống phá./.

Phòng, chống văn hóa xấu độc, ngoại lai

Không rùm beng ồn ĩ, không hô hào, kích động ào ạt, mà cuộc “xâm lăng văn hóa” diễn ra từ từ, ngấm ngầm, dai dẳng, nhưng vô cùng tai hại. Nếu không sớm nhận diện, tỉnh táo và có biện pháp phòng ngừa từ xa, văn hóa dân tộc Việt Nam sẽ đứng trước thử thách “sinh tử” bởi “cuộc chiến mềm” đầy mưu mô, tính toán của các thế lực thù địch.
Sở dĩ người ta ví sự “xâm lăng văn hóa” như một “cuộc chiến mềm” bởi xuất phát từ vị trí, vai trò và chức năng của văn hóa. Văn hóa là gốc rễ, là cội nguồn làm nên sức mạnh nội sinh và sức sống của mỗi dân tộc, đồng thời được ví như “tấm thẻ căn cước”, “chứng minh thư” để nhận diện giữa dân tộc này với dân tộc khác.
Quá trình phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập với thế giới ngày càng sâu rộng, bên cạnh tiếp thu, hấp thụ những giá trị, tinh hoa văn hóa của nhân loại, nước ta đang phải đối mặt với một thách thức, nguy cơ không nhỏ. Những năm gần đây, nhiều giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của ông cha bị đảo lộn, nhiều hành vi phản văn hóa mới xuất hiện với tần suất lớn, mật độ dày và nhất là môi trường văn hóa xã hội đang bị “ô nhiễm nặng nề” đã và đang trở thành nỗi bất an đối với vận mệnh quốc gia, dân tộc và tương lai đất nước. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng này là do cuộc “xâm lăng văn hóa” nhằm vào nước ta đang tấn công từ nhiều phía, từ nhiều con đường, thông qua nhiều hình thức, âm mưu, thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc.
Tại sao trong thời gian qua, dư luận hết sức băn khoăn bởi một bộ phận giới trẻ sa đà vào lối sống “gấp”, sống “thử”, sống co ro vào cái tôi nhỏ nhoi của mình? Tại sao nhiều thanh, thiếu niên nghiện trò chơi điện tử, nghiện xem phim sex, phim bạo lực đến mức báo động đỏ? Tại sao các vụ ly hôn trong gia đình trẻ, các vụ vi phạm pháp luật ở tuổi vị thành niên và thanh niên liên tục gia tăng? Tại sao rất nhiều người trẻ đã bị lôi kéo, mê hoặc đến mức “phát cuồng” một số ca sĩ, diễn viên, ngôi sao bóng đá từ nước ngoài mà họ coi là thần tượng? Tại sao một số bộ phim vừa ra đời đã bị công luận tiến bộ cảnh báo là nhảm nhí, thảm họa, làm “vẩn đục” môi trường điện ảnh Việt Nam? Tại sao xuất hiện một số bài báo theo kiểu “lượm lặt đó đây”, “sưu tầm bốn phương”, “thông tin đa chiều”, “thế giới nhìn từ nhiều góc cạnh”… với nguồn thông tin không được kiểm chứng, thậm chí là những thông tin vô bổ, có xuất xứ từ nước ngoài du nhập vào Việt Nam? Tại sao một số nhà xuất bản đã dịch và in ấn những cuốn sách nước ngoài có nội dung xa lạ với nếp nghĩ, truyền thống của dân tộc ta?
Tất cả những biểu hiện nêu trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, trong đó, căn nguyên vừa sâu xa, vừa trực tiếp là do chúng ta chưa chuẩn bị chu đáo về tâm thế, bản lĩnh trước khi bước vào sân chơi toàn cầu, chưa đủ kiến thức và sự tỉnh táo cần thiết nên đã bị choáng ngợp trước các những cuộc “xâm lăng mềm” về văn hóa. Trong khi đó, các thế lực thù địch, bá quyền đã tìm mọi cách, lợi dụng mọi sơ hở về chính sách, luật pháp của Việt Nam và lợi dụng tối đa những mặt trái của internet để cung cấp, truyền bá các tư tưởng lai căng, các sản phẩm văn hóa, thông tin độc hại vào nước ta. Với phương thức “mưa dầm thấm lâu”, thông qua sản phẩm văn hóa, thông tin xấu độc xuất hiện ngày càng nhiều, các thế lực thù địch muốn tiêm nhiễm vào tâm hồn, suy nghĩ công chúng, nhất là giới trẻ, qua đó làm dao động niềm tin, chao đảo nhận thức, từng bước thay đổi tư tưởng, lối sống, tâm lý, hành vi của họ. Đó cũng là mưu đồ mà các thế lực thù địch muốn “chuyển đổi hệ giá trị” ở Việt Nam, làm cho giới trẻ bị cuốn vào lối sống vị kỷ, thực dụng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, ngày càng xa rời lý tưởng, lẽ sống, niềm tin mà các thế hệ ông cha đã phải đổ bao xương máu, mồ hôi, công sức mới vun đắp, tạo dựng nên.
Cách đây gần 7 năm, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 46-CT/TW ngày 27-7-2010 về “Chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại gây hủy hoại đạo đức xã hội”, trong đó đã cảnh báo nghiêm khắc: “Môi trường đạo đức và văn hóa lành mạnh bị đe dọa nghiêm trọng, có nguy cơ dẫn tới khủng hoảng tinh thần, mất phương hướng lựa chọn các giá trị, lối sống và niềm tin của một bộ phận công chúng. Tình trạng đó đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến trật tự, an toàn, an ninh xã hội, dẫn đến khuynh hướng tự diễn biến về chính trị, tư tưởng, tác hại lâu dài đến các thế hệ mai sau”.
Văn kiện Đại hội XII cũng đã chỉ ra: “Môi trường văn hóa còn tồn tại những biểu hiện thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục… Tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ”.
Thông qua những cụm từ như: “Khủng hoảng tinh thần, mất phương hướng lựa chọn các giá trị, lối sống và niềm tin”, “tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ”..., cũng đủ thấy tính chất nghiêm trọng của vấn đề mà Đảng ta đã chỉ ra. Những cảnh báo đó đến nay vẫn chưa hề mất tính thời sự, hơn thế, có vấn đề còn trở nên đáng báo động hơn.
Điều mấu chốt này tưởng như ai cũng hiểu, cũng thấu, nhưng trên thực tế, không ít tổ chức, cá nhân, trong đó đáng nói nhất là một bộ phận thanh, thiếu niên đã bị cuốn theo những “cơn lốc mềm” từ các cuộc “xâm lăng văn hóa” từ bên ngoài mà không hề hay biết. Sự vô tình, thiếu hiểu biết đó cùng với những “tác động mềm” hết sức tinh vi của các thế lực thù địch đã làm cho bản sắc văn hóa truyền thống bị nhạt phai, có thể dẫn tới nguy cơ mất gốc và những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta dễ bị lung lay, mọt ruỗng.
Trước thực tế không thể coi nhẹ, xem thường đó, vấn đề cấp bách hiện nay là chúng ta phải thường xuyên, tích cực bồi tụ, vun đắp, nâng cao sức đề kháng văn hóa cho các cấp, các ngành và toàn xã hội. Sức đề kháng văn hóa chính là tăng cường khả năng phòng ngừa, bảo vệ, chống lại các sản phẩm văn hóa, thông tin độc hại từ bên ngoài xâm nhập vào nước ta. Lịch sử đã minh chứng rằng, sức đề kháng văn hóa có vai trò cực kỳ quan trọng đối với việc giữ gìn, bảo vệ và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nếu sức đề kháng văn hóa non nớt, nhu nhược, yếu kém sẽ là mảnh đất màu mỡ cho các “vi rút văn hóa” độc hại có cơ hội nảy sinh, lây lan, làm xói mòn tâm hồn, cốt cách văn hóa dân tộc. Ngược lại, nếu sức đề kháng văn hóa mạnh mẽ, cường tráng sẽ góp phần làm cho văn hóa Việt Nam không những giữ gìn được gốc gác, cội nguồn, bản sắc của mình, mà còn có thể đẩy lùi, tiêu trừ, loại bỏ được các tạp chất gây hại cho môi trường văn hóa dân tộc. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, việc huy động các cấp, các ngành và toàn xã hội cùng chung tay góp sức bồi đắp, nâng cao sức đề kháng văn hóa cho dân tộc chính là bảo đảm cho tư thế, bản lĩnh, sức sống và sức mạnh văn hóa Việt Nam luôn trường tồn, bền vững trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay. Đó cũng là giải pháp hữu hiệu bảo đảm cho những giá trị, tinh hoa của dân tộc không bị pha trộn, mất gốc hay đồng hóa trước các cuộc “xâm lăng văn hóa” từ bên ngoài.