Tiến sĩ để làm gì? Bao nhiêu phần trăm tiến sĩ có đáp án cho câu hỏi này là để làm khoa học? nếu đưa ra phép so sánh rất thú vị: ở Mỹ 45 đời tổng thống chỉ có một người có trình độ tiến sĩ nhưng ở Mỹ có nền kinh tế và khoa học công nghệ hiện đại vào bậc nhất thế giới. Trong khi tại Việt Nam, dù đã sở hữu đến hơn 20.000 tiến sĩ nhưng vẫn đang loay hoay tìm cách đặt “hàng rào” ngoại ngữ từ đầu vào, nâng chuẩn đầu ra bằng công bố quốc tế hay những nghiên cứu có giá trị...Học vị tiến sĩ ở Việt Nam có vẻ đang được xem là thứ trang sức mà khi khoác lên, nhiều người nghĩ mình sẽ có một giá trị khác... Trên thế giới, nhiều nước định nghĩa rất ngắn gọn người được trao bằng tiến sĩ dứt khoát không thể không có cái mới, không có phát minh, cho dù những cái mới ấy có tầm vóc khác nhau.
Trong thực tế cho thấy, muốn nâng cao chất lượng tiến sĩ thì trước hết phải định nghĩa được tiến sĩ là ai, xác định rõ tiến sĩ để làm gì. Không khó để nhận ra cũng như học vị tiến sĩ, nhiều quan chức ở nước ta dù không giảng dạy và phải vào cơ sở đào tạo để “xin” giờ dạy, rồi quay đi quay lại cũng được công nhận PGS, GS... Đến lúc này, cơ quan chức năng đã buộc lòng phải thừa nhận việc tăng quy mô đào tạo tiến sĩ trong điều kiện đào tạo chưa đáp ứng chuẩn mực cao nhất trong nghiên cứu khoa học so với các nước dẫn đến tình trạng lạm phát văn bằng
tiến sĩ.
Đứng trước số PGS, GS tăng đều, thậm chí tăng mạnh lên đến hơn 700 GS, PGS được công nhận mới năm 2016, người đứng đầu Hội đồng chức danh GS nhà nước có nhận định “số GS, PGS của nước ta so với thế giới còn khiêm tốn”. Nghe sơ qua thì có lý, nhưng nhìn số lượng GS, PGS tăng hằng năm lại không khỏi ngẫm ngợi. Ví dụ thực tế một cơ sở đào tạo thuộc khối khoa học xã hội một năm có đến 350 chỉ tiêu đào tạo tiến sĩ, nghĩa là cứ tính trung bình thì gần như mỗi ngày “ra lò” một tân tiến sĩ...Hẳn nhiên những con số ấy sẽ chẳng đáng bàn nếu như các đề tài nghiên cứu của các tiến sĩ từ các cơ sở đào tạo thật sự có giá trị khoa học, hay đem lại những lợi ích trong thực tiễn?
Một sự bất cập khác trong đào tạo, sự nghi ngờ về chất lượng tiến sĩ đã làm “vàng thau lẫn lộn”, khiến dư luận đánh đồng những tiến sĩ thật sự chất lượng, có đề tài nghiên cứu giá trị với những tiến sĩ thiếu thực học, thực tài. Đừng đem số nhiều đọ với tinh hoa, cũng đừng đơn thuần so với thế giới để thấy số lượng ấy “chưa thấm vào đâu”, trong khi GS ở nhiều nước đơn giản là do trường ĐH bổ nhiệm, là danh xưng dành cho người giảng dạy ĐH, còn Việt Nam đã lâu xem GS là tinh hoa đất nước.
Đành rằng có nhiều cách lý giải về số lượng tiến sĩ, PGS, GS Việt Nam đang tăng mạnh - trong đó có cả cách lý giải tăng thế vẫn chưa thấm vào đâu, chưa đuổi kịp thế giới... nhưng bản chất chỉ có một: Chất lượng khoa học có nâng lên, xã hội có được hưởng lợi tương xứng nhờ các nghiên cứu khoa học, từ nguồn nhân lực đào tạo do tăng số lượng các chức danh này đem lại? Từ góc nhìn ấy thì nỗi lo về nguy cơ “lạm phát” chức danh GS, PGS so với mặt bằng trình độ khoa học - công nghệ thực tế, cũng như không ít trường hợp tiến sĩ đào tạo ra không biết để làm gì là chuyện rõ như ban ngày...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét