Diễn biến
Mở màn trận đánh
Lúc 10 giờ 15 phút ngày 10 tháng 5, Tiểu đoàn 8 do Tiểu đoàn trưởng Đinh Xuân Bài chỉ huy nổ súng tiến công 1 đại đội thuộc Tiểu đoàn Dù số
3 Mỹ trên các điểm cao 400, 500, cách đông bắc A Bia khoảng 2 km. Đại đội
5 được tăng cường hai cối 82mm, chia làm ba mũi, mũi chính đánh ngang đội hình
địch ở "yên ngựa" rồi tỏa ra hai hướng đánh ngược lên các đỉnh 500 và
400, để kết hợp với hai mũi đánh từ phía sau mỏm 500 xuống.
Trên mỏm cao 400, sau khi bí mật tiếp cận mục tiêu, đến giờ nổ
súng, tiểu đội 10 tiêu dệt 1 tiểu đội Mỹ, sau đó phát triển xuống "yên
ngựa", phối hợp với trung đội 3 đánh ngược lên.
Cùng lúc đó ở mỏm 500, tiểu đội 9 đánh lên đỉnh, nhưng trúng hai
quả mìn định hướng Mỹ gài sẵn làm thương vong gần hết. Mũi phát triển từ
"yên ngựa" lên cũng bị quân Mỹ từ trên mỏm bắn xuống, đội hình tiến
công ở hướng này bị chững lại. Đại đội 5 phải dùng cối 82 ly và B40 đặt từ đỉnh 400
bắn sang chi viện nhưng vẫn không dứt điểm được. Pháo binh Mỹ dồn dập bắn vào
mỏm 400, kết hợp với hai máy bay trực thăng rà sát ngọn cây quét đại liên, thả
lựu đạn xung quanh điểm cao 500. Trước tình hình đó, tiểu đoàn 8 lệnh cho đại
đội 5 lùi về A Bia tiếp tục xây dựng trận địa chốt. Trận chiến đấu diễn ra
không quá một giờ, hàng chục lính Mỹ tử trận. Tiểu đoàn 8 của phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam do phân tán lực lượng, không tập trung vào
mục tiêu chủ yếu là sở chỉ huy Mỹ đã để quân Mỹ kịp tổ chức chống cự gây nhiều
tổn thất.
Ở hướng tiểu đoàn 7, ngay phút đầu ban chỉ huy tiểu đoàn đã tập
trung hỏa lực chi viện cho đại đội 1 đánh lên điểm cao 903. Sau khi hàng chục
lính Mỹ tử thương. Mỹ đưa 6 máy bay
trực thăng lên chi viện và bốc 2 đại đội ở đây về phía nam.
Quân Mỹ biết đã gặp lực lượng chủ lực, tăng cường độ đánh phá và
dùng trực thăng vũ trang thay nhau trinh sát khu vực xảy ra chiến sự.
Ngày 11 tháng 5, Honeycutt giao cho 2 đại đội Alpha và Delta do
thám phía bắc và tây bắc núi A Bia, trong khi các đại đội Bravo và Charlie tăng
cường tại các tuyến đường khác nhau. 13 giờ ngày 11 tháng 5, Mỹ đổ 2 tiểu đoàn
xuống các điểm cao 903, 916 và A Bia. Phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, Trung đoàn trưởng lệnh cho tiểu đoàn 7 để 1
đại đội ém quân tại khu vực 903, 916, còn 3 đại đội cơ động bám sát, tiến công
Mỹ.
Khi ra ngoài bãi đáp trực thăng trên sườn núi phía bắc, Đại đội
Bravo đã giao tranh dữ dội với lực lượng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong khu vực 1 km vào cuối ngày.
Honeycutt nhanh chóng chỉ đạo máy bay trực thăng vũ trang AH-Cobra, trang bị rocket và súng máy hạng nặng để hỗ trợ cho một cuộc
tấn công vội vã. Trong rừng rậm, những chiếc Cobra nhầm tiểu đoàn 3/187 Mỹ với
một đơn vị Quân Giải phóng miền Nam nên đã tấn công, giết chết hai người và
làm bị thương 35, (gồm cả Honeycutt). Việc bắn lầm này phá vỡ đội hình và sự
chỉ huy, và buộc tiểu đoàn 3/187 rút lui vào vị trí phòng thủ đêm. Tuy nhiên,
liên lạc xác nhận rằng một lực lượng đáng kể phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã có mặt, Honeycutt ước tính là cần
tăng cường một trung đội hoặc đại đội.
Cũng đêm ngày 11, tiểu đoàn đặc công của quân khu tiến công sở
chỉ huy lữ đoàn dù 3 Mỹ ở căn cứ Động Tranh.
Sáng ngày 12 tháng 5 Mỹ phải đưa tiểu đoàn 2/506 ở A Lê Thiêm về bảo vệ sở chỉ
huy lữ đoàn. Mỹ rút tiểu đoàn 2 về Động Tranh, phía bắc A Bia không còn lính
chốt giữ. Ban chỉ huy Trung đoàn 3 Quân Giải phóng miền Nam quyết định điều tiểu đoàn 9 do tiểu đoàn
trưởng Vượng chỉ huy hoạt động từ địa đạo Lam Sơn đến khu vực Bãi Ổi. Tiểu đoàn
8 tiếp tục củng cố trận địa chốt.
Cũng trong hai ngày này, Honeycutt điều khiển các đại đội của
mình tới các vị trí cho một cuộc tấn công phối hợp ngày 13 tháng 5 nhưng đã
thất vọng bởi địa hình khó khăn và sự kháng cự của phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Một đơn vị của Đại đội Delta, rơi vào một
khe núi dốc lầy lội vào ngày 12 tháng 5, phải chịu đựng tổn thất rất cao trong hai ngày.
Quân Mỹ đẩy mạnh tấn
công
Buổi trưa ngày 13 Tháng 5, chỉ huy lữ đoàn Dù, Đại tá Conmy, đã
quyết định nó sẽ cắt đứt chi viện của lực lượng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam từ Lào và hỗ trợ Honeycutt bằng cách tấn
công A Bia từ phía nam. Đại đội Bravo được trực thăng đưa lên Đồi 916, nhưng
phần còn lại của tiểu đoàn di chuyển bằng đường bộ, từ một khu vực cách
4 km từ Đồi 937, và cả Conmy và Honeycutt dự kiến Tiểu đoàn 1/506 sẽ sẵn
sàng cung cấp hỗ trợ không muộn hơn buổi sáng ngày 15 tháng 5. Mặc dù Đại đội
Bravo đã tới Đồi 916 ngày 15 tháng 5, nó đã không tham gia tấn công cho đến ngày 19 tháng 5 do rừng rậm gần như không thể di chuyển.
Lúc 12 giờ trưa ngày 13 tháng 5, đại đội Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phát hiện một tốp lính Mỹ trong hố bom
dưới "yên ngựa", đang dùng ống nhòm quan sát lên đỉnh A Bia. 20 phút
sau nhiều lính Mỹ kéo ra dưới mỏm "yên ngựa". Đợi lính Mỹ dưới hố bom
leo lên, phía Quân Giải phóng miền Nam dùng mìn sát thương cùng với bộ binh
tiến lên đánh vào nhóm đi trước, khẩu đội cối 82mm đánh chặn phía sau. Quân Mỹ
bỏ chạy theo triền đồi. Đại đội 1 tiểu đoàn 2/501 bị tiêu diệt. Quân Mỹ dùng
trực thăng vận 2 đại đội khác đổ xuống chân điểm cao A Bia nhặt xác đồng đội,
nhưng trời đã tối nên phải quay về vị trí cũ.
Sau trận chiến đấu của đại đội 6 ở A Bia, phương án tác chiến
được khẳng định. Quân Mỹ tiếp tục phản kích lên A Bia và các điểm cao điểm 903,
916. Ban chỉ huy Quân Giải phóng Việt Nam quyết định tiếp tục sử dụng tiểu đoàn 8
chốt ở A Bia và tiểu đoàn 7 giữ điểm cao 903, đưa tiểu đoàn 9 vào hoạt động ở A
Lê Thiêm, A Lê Lốc, đồng thời dùng đặc công liên tục tập kích vào các vị trí
đóng quân của Mỹ. Thực hiện chủ trương của trung đoàn, đêm ngày 13 rạng
ngày 14 tháng 5, đại đội 20 đặc công tập kích vào sở chỉ huy
tiểu đoàn 1/506 ở điểm cao 1078 phá huỷ trận địa pháo 105mm.
Ngày 13 tháng 5, lữ dù 3 Mỹ tổ chức phản kích vào các điểm cao
903 và 916. Tiểu đoàn 7 do tiểu đoàn trưởng Tăng Văn Miêu và chính trị viên Trần Triền chỉ
huy. Trong thế xen kẽ, chiến sĩ tiểu đoàn 7 đã tập kích khiến lính Mỹ phải
thường xuyên di chuyển, gọi pháo chi viện tạo nên vành đai hỏa lực xung quanh
vị trí trú quân.
Ngày 14 tháng 5, tổ chức phân đội hỏa lực 12 khẩu gồm B40, B41, cối 82, cối 60 ly của phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam bất ngờ đánh vào đội hình của 1 đại đội
Mỹ cách điểm cao 916 hai km về phía đông, Sau khi dùng bom, pháo bắn phá dọn
đường suốt hai ngày 13 và 14 tháng 5, quân Mỹ sử dụng tiểu đoàn 1/506 chia làm
hai mũi tiến công đánh chiếm lên A Bia. Phía đông nam, đợt phản kích của 2 đại
đội Mỹ cũng bị đại đội 6 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ghìm chân dưới "yên ngựa" bằng
những bãi mìn và đạn cối. Khi quân Mỹ vượt được lên
"yên ngựa", vào gần tới đỉnh thì bị bộ binh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phục kích. Bị đánh gần và bất ngờ, lính
Mỹ lùi xuống chân điểm cao, gọi pháo chi viện.
Biết lữ đoàn dù 3 Mỹ đang dồn nỗ lực chiếm A Bia, từ ngày 15
tháng 5 trở đi, tiểu đoàn 8 tranh thủ thời gian giữa hai đợt phản kích đào hầm,
phát triển tuyến chốt sang hướng sườn tây bắc điểm cao A Bia nhằm tránh pháo Mỹ
từ phía đông bắc bắn tới. Hầm hào được xây dựng nửa nổi, nửa chìm, có hầm ngủ,
hầm chiến đấu nhiều tầng, nhiều lớp. Cơ quan trung đoàn và các đơn vị trực
thuộc thay nhau lên A Bia giúp tiểu đoàn 8 xây dựng hầm hào. Với hệ thống công
sự này, tiểu đoàn 8 nấp mình trong lòng đất đã tránh được bom pháo Mỹ ngày đêm
cày nát ngọn đồi, tổ chức phản kích hàng chục đợt tiến công của quân Mỹ. Quân
Mỹ với sự hỗ trợ của bom napalm, súng phụn lửa, pháo không giật đã tiến rất chậm, mỗi công sự chiếm được
đều phải trả giá đắt. Các đơn vị Quân Giải phóng miền Nam Việt nam cũng tổ chức đánh các bãi đáp trực thăng
của Mỹ, bắn rơi hoặc bắn hư hỏng nhiều máy bay trực thăng dù chỉ có vũ khí hạng
nhẹ và súng phóng lựu.
Sau 3 ngày bị chặn đứng, quân Mỹ thay đổi chiến thuật. Vừa dùng
phi pháo đánh ác liệt vào trận địa chốt, vừa dùng lực lượng cấp đại đội đánh
vào các điểm cao 916, 900, nhằm bao vây cô lập tiểu đoàn 8, sau đó dùng lực
lượng lớn tiến công, đánh chiếm A Bia.
Trưa ngày 15 tháng 5, trực thăng Mỹ đổ 1 đại đội (Đại đội Bravo) thuộc tiểu đoàn
1/506 xuống điểm cao 916, đồng thời tung 2 tiểu đoàn vào hướng điểm cao 900,
phối hợp lấn dần sang A Bia, cùng tiểu đoàn 2/501 tổ chức phản kích. Hai bên
giành giật nhau suốt hai ngày liền. Quân Mỹ ba lần thay quân, lực lượng Quân Giải phóng miền nam Việt Nam cũng vơi dần, hầm hào sụt lở, không kịp
củng cố. Các chốt của tiểu đoàn 8 mất dần, nhất là hướng chốt đại đội 8. Tuy
vậy phía Quân Giải phóng miền nam Việt Nam vẫn giữ được A Bia.
Tiểu đoàn 8 bị cắt rời khỏi đội hình trung đoàn. Ban chỉ huy
tiểu đoàn hội ý quyết định để đại đội 6 tiếp tục củng cố trận địa, đánh địch từ
hướng bắc; rút đại đội 7 ra tăng cường cho chốt ở điểm cao 991, đại đội 5 bổ
sung cho chốt đại đội 8, số còn lại làm lực lượng dự bị. Đồng thời tiểu đoàn
điện báo cáo về trung đoàn: "Tình hình có khó khăn, thương binh
không chuyển được, đạn thiếu, lực lượng cơ động không có. Chỉ có khả năng giữ
đến sáng 17 tháng 5. Hướng rút lui phía nam A Bia".
Lữ đoàn dù 3 Mỹ đã bị động đối phó về mặt chiến thuật, từ chỗ
chủ động lùng sục tìm diệt phải quay sang đánh chiếm mục tiêu đúng như ý định
của phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Ban chỉ huy trung đoàn Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam lệnh cho tiểu đoàn 8 tiếp tục giữ A Bia,
thu hút đối phương, tạo điều kiện cho hai tiểu đoàn 7 và 9 cùng các đại đội hỏa
lực lật cánh sang phía nam A Bia vận động tấn công vào sườn quân Mỹ; trước mắt
phải đánh bật đại đội Mỹ ở điểm cao 916 để lập lại thế liên hoàn toàn trung
đoàn.
Suốt hai ngày 16 và 17 tháng 5, nhiều trận đánh diễn ra liên
tiếp trong khu vực đồi 903, 916 và phía nam A Bia. Ngày 16 tháng 5, trung đoàn tập trung 16 khẩu cối, B-40, B-41 và đại liên
12,7mm tập kích bất ngờ vào đại đội Mỹ ở Động Chuối, 9 giờ ngày 17 tháng 5, đại
đội 2 tiểu đoàn 7 bất ngờ tiến công 1 đại đội Mỹ ở điểm cao 916. đánh bật quân
Mỹ ở mỏm 1. Quân Mỹ bỏ mỏm 2 chạy dạt xuống chân điểm cao, vấp phải chốt của
đại đội 5. Hai giờ chiều ngày 17 tháng 5, nhiều quân Mỹ ở 916 tử trận. Hành
lang giữa 916 và A Bia đã khai thông. Đường sang tiểu đoàn 8 lại được mở. Chỉ
huy lữ dù 3 chưa hay biết gì về số phận đại đội Mỹ trên điểm cao 916 nên vẫn
cho trực thăng đổ quân tiếp ứng cho đại đội này, nên bị đại đội 2 bắn cháy 2
trực thăng và lính đi cùng.
Thời gian này, ở hướng A Bia cũng diễn ra trận chiến đấu ác
liệt. Mỹ cố đánh chiếm A Bia để gỡ thể diện và để nhặt xác đồng đội tử trận
suốt hai ngày qua. Sau khi cắt rời tiểu đoàn 8 khỏi đội hình Trung đoàn 3, lữ
dù 3 Mỹ cùng tiểu đoàn 2/501 và hai đại đội thuộc tiểu đoàn 1/506 bâu quanh A
Bia thay nhau phản kích. Mỹ không dùng chiến thuật "cơn sóng lớn áp đảo
đối phương" nữa mà thực hiện chiến thuật "sóng liên hồi" nhằm
gây căng thẳng dẫn đến suy sụp về ý chí và tinh thần, buộc phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phải mệt mỏi mà rút bỏ A Bia.
Trong hai ngày 16 và 17 tháng 5, các trận địa pháo Mỹ dọc đường
số 12 hướng về A Bia trút đạn, bắn cả đạn hóa học gây chảy nước mắt, nước mũi.
Trận phản kích cuối cùng trong ngày 17 tháng 5 diễn ra lúc 15 giờ. Quân Mỹ chia
làm 4 mũi, dùng đạn hóa học đánh lên A Bia. Đến 16 giờ, 1 đại đội Mỹ được phi
pháo yểm trợ lại tiến công lên chốt.
Trong lúc quân Mỹ còn tập trung vào hướng các đại đội 5 và 6 thì
đại đội 2, tiểu đoàn 7 bất ngờ tiến công vào sườn trái đội hình phản kích của 1
đại đội Mỹ, hất xuống chân điểm cao. Đợt phản kích cuối cùng của Mỹ lên A Bia
trong ngày 17 đã thất bại.
Bị cầm chân suốt 5 ngày, các chỉ huy lữ đoàn Mỹ đã ra lệnh một
cuộc tấn công phối hợp hai tiểu đoàn vào ngày 18 tháng 5, với tiểu đoàn 1/506 tấn công từ phía nam và 3/187 tấn công từ
phía bắc, cố gắng để cô lập lực lượng đối phương. Đại đội Delta của tiểu đoàn
3/187 được không vận tới gần ngọn đồi, nhưng bị tập kích và thương vong nghiêm
trọng, bao gồm tất cả các sĩ quan của mình. Từ một máy bay trực thăng quan sát,
chỉ huy tiểu đoàn đã cố gắng phối hợp các đại đội khác vào một cuộc tấn công
cuối cùng, nhưng một trận mưa dữ dội làm giảm khả năng yểm trợ không quân và
kết thúc trận đánh. Tiểu đoàn 3/187 một lần nữa phải rút lui xuống núi. Ba đại
đội của tiểu đoàn 1/506 chiến đấu để giành điểm cao 900, phía nam của đỉnh núi,
cũng gặp phải sự kháng cự mạnh.
Bởi thương vong nặng nề trong 1 tuần và chịu áp lực từ sự chú ý
không mong muốn báo chí, một số chỉ huy nghiêm túc xem xét việc ngừng các cuộc
tấn công. Cả hai tư lệnh quân đoàn và tư lệnh MACV, tướng Creighton W. Abrams, công khai ủng hộ quyết định này. Nhưng các chỉ huy tại chỗ lại
cảm thấy sẽ bị bẽ mặt khi phải rút lui bởi một lực lượng đối phương nhỏ bé hơn
nhiều. Vậy là Zais quyết định tiếp tục tấn công, tung ba tiểu đoàn mới vào
chiến đấu thay thế cho những đơn vị đã thiệt hại nặng. Tiểu đoàn 3/187 thiệt
hại nghiêm trọng, với khoảng 320 thiệt mạng và bị thương, chiếm hơn 60% trong
số 450 binh sĩ có kinh nghiệm ban đầu. Hai trong số bốn chỉ huy đại đội và 8/12
trung đội trưởng đã thương vong.
Lực lượng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam rút lui
Sau 1 tuần chiến đấu, 2 tiểu đoàn Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã hoàn thành mục tiêu được giao là tiêu diệt một
lượng đáng kể lính Mỹ. Như chiến lược chung trong những trận đánh với Mỹ, phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam không cố gắng giành giật trận địa mà chỉ
cố gắng gây thương vong tối đa cho địch trước khi tổ chức rút lui để tránh bị
hỏa lực và sức cơ động vượt trội của Mỹ bao vây tiêu diệt. Kế hoạch ban đầu là
rút vào đêm 17 nhưng các đơn vị đã hoàn thành tốt và kéo dài thêm được 1 ngày.
Đêm 18, phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam bắt đầu tổ chức rút lui khỏi trận địa
núi A Bia, chỉ để lại một bộ phận nhỏ làm nghi binh.
Ngày 19 tháng 5, 2 tiểu đoàn bộ binh Mỹ đã được không vận vào bãi đáp đông bắc
và phía đông nam của núi. Cả hai tiểu đoàn ngay lập tức di chuyển lên núi để
tới các vị trí mà từ đó họ sẽ tấn công vào sáng hôm sau. Trong khi đó, tiểu
đoàn 1/506 dùng ngày thứ ba liên tiếp để bảo đảm an toàn cho điểm cao 900.
Lữ đoàn 3 đưa ra bốn tiểu đoàn của mình tấn công vào lúc 10 giờ
ngày 20 tháng 5, bao gồm cả hai đại đội của 3/187 được tăng
cường bởi đại đội Alpha 2/506. Các cuộc tấn công được hỗ trợ bởi 2 giờ không
kích và 90 phút nã pháo. Các tiểu đoàn tấn công đồng thời, 12 giờ tiểu đoàn
3/187 lên tới đỉnh. Đơn vị nhỏ làm nhiệm vụ nghi binh còn lại của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam sau khi nổ súng cầm chân quân Mỹ đã rút
sang Lào theo đơn vị chính, và Đồi 937 được quân Mỹ nắm giữ vào 17 giờ.
Năm 2011, bà Kan Đơm, nữ du kích người dân tộc Pa Kô kể rằng, có
một chuyện mà nhiều người chưa biết về những gì lính Mỹ đã làm với chiến sĩ du
kích Cu Lọi khi trận đánh trên ngọn đồi A Bia kết thúc. Anh Cu Lọi tham gia
đánh căn cứ A Bia, nhận nhiệm vụ ở lại cản chân quân Mỹ để đồng đội rút lui. Cu
Lọi hy sinh, nhưng lính Mỹ đã lấy xác anh, chặt đầu cắm lên cọc, băm thi thể
anh ra từng mảnh vụn rải khắp ngọn đồi. Bà Kan Đơm kể: "Lính Mỹ
làm vậy là để cho người Pa Kô của mệ nhụt chí không còn dám theo Đảng và Bác Hồ
đánh giặc nhưng chúng đã lầm. Từ đó, đồng bào Pa Kô đã gọi đồi A Bia là đồi Băm
(băm xác) để khắc ghi trong tim mình sự hy sinh anh dũng của anh Cu Lọi mà quyết
tâm đánh giặc đến cùng..."
Kết quả
Trong 10 ngày chiến đấu, quân đội Mỹ chịu thiệt hại 72 lính chết
và 372 bị thương, vài trực thăng bị bắn rơi hoặc bắn hỏng. Quân Mỹ tuyên bố các
tiểu đoàn 7 và 8 của Trung đoàn 29 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã có 630 người tử trận (chưa kể số bị
thương) khi chiến đấu với quân Mỹ. Con số thiệt hại của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, Mỹ tuyên bố gây nhiều tranh cãi và bị
coi là phóng đại, bởi thực tế quân Mỹ không thể đếm số lính Việt Nam bị chết
trong hoàn cảnh chiến trường khi đó (địa hình rừng núi, pháo kích và không quân
ném bom dày đặc làm chiến trường rất khó quan sát, bộ binh Việt Nam cũng thường
ẩn mình trong các công sự khó bị phát hiện). Trong thực tế, trong suốt trận
đánh, quân Mỹ chỉ thu được 89 vũ khí cá nhân và 22 vũ khí cộng đồng của Quân Giải phóng Việt Nam (chỉ bằng 1/6 số lính Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tử trận mà Mỹ tuyên bố)
Quân Mỹ hao tổn hàng trăm sinh mạng nhưng rốt cục chỉ chiếm được
một ngọn đồi không có giá trị về quân sự. Thiếu tướng John M. Wright lặng lẽ ra lệnh rút khỏi đồi ngày 5 tháng 6. Các cuộc tranh luận về "Hamburger Hill" diễn ra
tại Quốc hội Hoa Kỳ, với những lời chỉ trích đặc biệt nghiêm
trọng của các thượng nghị sĩ Edward Kennedy, George McGovern và Stephen M. Young. Edward Kennedy gọi đây là "Cuộc hành quân
điên rồ và vô trách nhiệm. Sinh mạng của binh sĩ Mỹ đã bị phung phí chỉ để thể
diện nhà binh cho các sĩ quan chỉ huy"
Báo chí Mỹ ngày 25 tháng 5 năm 1969 gọi A Bia là "Đồi thịt băm của lính dù
Mỹ", lên án quân đội Mỹ ném quân lên vùng núi A Bia chỉ để biến cuộc hành
quân "Tuyết rơi trên đỉnh núi" (Apache Snow) thành "Máu
rơi trên đỉnh núi". Trong số 27 tháng 6, tạp chí Life đã
công bố những bức ảnh của 241 lính Mỹ thiệt mạng trong một tuần tại Việt Nam,
được coi là một bước ngoặt của chiến tranh. Dù chỉ có một phần trong số này là
thương vong trên Hamburger Hill, nhiều người Mỹ đã nhận thức rằng tất cả những
người chết đều là nạn nhân của "trận đánh điên rồ và vô nghĩa" này.
Tranh cãi về trận chiến này đã dẫn đến một đánh giá
lại chiến lược của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Như một kết
quả trực tiếp, để giữ thương vong không cao quá mức, tướng Abrams ngừng chính
sách "áp lực tối đa" chống lại Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, trong khi Tổng thống Richard Nixon đẩy nhanh thực hiện chiến lược mới là Việt Nam hóa chiến tranh, và tuyên bố đợt rút
quân viễn chinh đầu tiên. Mặc dù trận đánh chỉ ở mức tiểu đoàn, song nó đã trở
thành một bước ngoặt trong chiến tranh Việt Nam.
Với Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, những kết quả thu được trong trận đánh ở A
Bia và đợt hoạt động phản công của Sư đoàn 324 ở
vùng thung lũng A Lưới đã cổ vũ và thúc đẩy phong trào đánh phá "bình
định" đang phát triển ở các địa phương. Chiến thắng A Bia đã đi vào trang
sử truyền thống đầu tiên của Sư đoàn 324 kể
từ khi được tổ chức lại và là mốc mở đầu cho giai đoạn khôi phục lại thế trận
xuống đồng bằng, lập lại thế ba vùng chiến lược sau Tết Mậu Thân 1968....
(Còn tiếp)...
(Còn tiếp)...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét